Lê Hoàn Được Suy Tôn Lên Làm Vua Lập Nên Nhà Tiền Lê (981-1009) Đổi Niên Hiệu Là Gì?

(981-1009) đổi niên hiệu là gì?

Người dân chúng ta phải biết lịch sử của chúng ta

Lượt truy cập

Phần 2: Lịch sử Việt Nam thế kỷ 10

i / Thời kỳ thành lập của Tổ chức Tự trị (906-938)

Từ cuối thế kỷ IX, nhà Đường (Trung Quốc) tan rã nhanh chóng, các quan đại thần chỉ lo lập kế hoạch và duy trì cơ sở, nền chính trị suy vi, kỷ luật nghiêm minh, kinh tế suy kiệt, đời sống nhân dân. đã khốn khổ. … Đây là điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Khởi nghĩa Hejing nổ ra trong hoàn cảnh đó và giành thắng lợi nhanh chóng. Bạn đang tìm kiếm: Lai cũng được tôn làm vua và tạo ra tiền cảnh (981-1009). Đổi tên là gì? Bạn đang xem: le hoan được tôn là vị vua lập ra nhà tiền le (981-1009) Ngày tháng năm được đổi vào năm nào? Bạn đang xem: le hoan được tôn làm vua và tạo ra nhà tiền le (981-1009) Sự thay đổi của năm là gì? Bạn đang xem: Lee cũng được tôn vinh là vua sáng lập của sân trước (981-1009) Kỷ nguyên của sân trước (981-1009) là gì?

1 / Họ thiết lập quyền tự trị ban đầu (906-930)

Dòng họ khuc là một dòng họ lâu đời ở Hồng Châu (nay là Hải Dương, Hải Phòng). Hình mẫu tiêu biểu của hình mẫu là người gia trưởng, người hiền lành, nhân hậu và được người khác kính trọng.

Vào giữa năm 905, khi nhà Đường (Trung Quốc) đang suy tàn, chính quyền đô hộ Giao Châu hoang mang và bất lực. (Hà Nội)).

Vào tháng 2 năm 906, nhà Đường (Trung Quốc), đối mặt với sự hỗn loạn, phải chấp nhận đề nghị của hoàng đế phong cho ông làm Dinghaiti (trước đây là nơi cai trị của Annan).

Vì vậy, trên thực tế, như trên danh nghĩa, khương thương đã nắm toàn quyền cai trị trấn trấn thanh hải, thành lập một chính phủ tự trị do ông đứng đầu thay vì chính quyền tự trị của nhà Đường. Bản kinh này đã chấm dứt hơn một nghìn năm thống trị của phong kiến ​​phương bắc và đặt nền móng ban đầu cho nền độc lập dân tộc.

Sau cái chết của chính quyền quân sự vào tháng 7 năm 907, tôi tiếp tục sự nghiệp tự lực cánh sinh của mình với một số cải cách đối với hệ thống chính quyền thống nhất, tập trung quyền lực vào một mối quan hệ duy nhất. Điểm nổi bật trong đường lối chính trị của khuc hao là thực hiện “khoan dung, trọng tình, vì dân”. Ông sửa đổi địa tô, thuế khóa và nhấn mạnh vào quyền dịch thuật vào thời nhà Đường, và ra lệnh “Đánh thuế Bình Thiên, miễn dịch quyền, lập hộ khẩu, chỉ định quê quán, …”

Trên thực tế, khuc hao đã đặt nền móng cho một tổ chức nhà nước mới. Mặc dù họ không có quốc hiệu, ngai vàng hay thủ đô, đất nước của họ có một nền tảng xã hội vững chắc hơn bao giờ hết.

Các cuộc cải cách đã diễn ra trong khoảng 10 năm trước khi các bài hát biến mất. Trong bối cảnh chính trị ngày càng phức tạp, Song of Beauty đã thay thế cha mình.

Năm 930, Nam Hán đánh bại Zhongmei của quốc gia.

Beautician Song không có khả năng tự chủ để duy trì sự nghiệp của cha mình. Nhưng các thủ lĩnh của Nghệ An-Hà Tĩnh và Thanh Hóa vẫn tiếp tục duy trì quyền kiểm soát các khu vực rộng lớn của châu thổ Mahe. Một vị tướng tài giỏi xuất thân từ dòng họ Khuất sứ (hay còn gọi là Đường nghệ thuật), kế vị chức tể tướng, duy trì nền tự trị ở quê nhà Ái (Thanh Hóa).

2 / duong dinh nghe và công cuộc khôi phục dân tộc (931-937)

Dương Định Nghệ, tộc trưởng của vùng Aizhou. Ông tập hợp 3.000 nghĩa quân, ngày đêm luyện võ, luyện binh, chuẩn bị thời cơ chiến tranh.

Vào tháng 3 năm 931, quân du kích tiến quân, bao vây thành phố Đà Lạt (trụ sở của chính phủ Nam Sơn) và chiếm được thành phố, tiêu diệt quân chiếm đóng và quân tiếp viện của vương triều Nanhan, khôi phục quyền tự chủ của đất nước.

Sau chiến thắng, Đường Định Nghệ tự xưng là tổng đốc và bổ nhiệm các tướng lĩnh cai quản các tỉnh khác ở Kinh Hải (Jiaozhou). Dưới trướng ông có rất nhiều tướng tài như: dinh công lược; Ngô quan …

Tháng 4 năm 937, Đường Định nghệ bị ngoại binh đuổi đi, một tướng của ông bị giết, đoạt chức Tả thị lang.

3 / Bach trong Chiến thắng năm 938:

Vị tướng tài ba này và con rể của Yang Tingyi được cho là Wu Quan, người đã mang quân từ Aizhou (Thanh Hóa) lên phía bắc để trừng phạt kiều công. Quá hoảng sợ, Kiều Công sai người xuống phía nam cầu cứu. Hàn Quốc lúc bấy giờ là một quốc gia giàu có và hùng mạnh.

Nhà vua Nam Hán đặt tên con trai là Wanwang Huang Tao (còn gọi là Huang Suo) làm thanh tra hải quân, sau đổi tên thành Jiao Wang, ngụ ý rằng vùng đất này được giao cho tỉnh này để tuyên truyền. Hoàng Thiệu được giao chỉ huy thủy quân vượt biển đến Giao Châu, mượn danh nghĩa giúp Việt kiều đánh bại Ngô Quân, thực chất đây là cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. Ngoài lực lượng chủ lực đó, vua Nam Sơn còn đích thân dẫn một đội quân khác đóng ở Hải Môn (Quảng Tây, Trung Quốc) để hỗ trợ.

Vào mùa đông năm 938, Ngô Quân dẫn quân đánh chiếm thành phố Dala và giết chết Việt kiều. Sau khi cuộc nổi dậy kết thúc, Ngô Quân bắt đầu chuẩn bị đánh quân Nam Hán.

Nắm được đường đi nước bước của quân Nam Hán, Ngô Quân lập kế tiêu diệt quân chủ lực của Hoàng Thiệu ở cửa sông Baidang. Lúc đó miệng bìm bịp ăn sâu vào đất liền hơn bây giờ. Đây là một nơi hiểm trở, sông rộng hơn một km, do nó tập trung nước từ toàn bộ phía đông bắc và đổ vào Vịnh Hạ Long. Khu vực cửa biển Bạch Đăng rộng và thấp, chịu tác động lớn của thủy triều, độ chênh lệch giữa hai vùng nước có khi lên đến hơn 3 mét. Khi thủy triều ngược với gió, sóng trắng xóa và mực nước dâng cao cả một vùng nên sông có tên là Bạch Xuống. Bờ nam của Bạch xuống là một dãy núi đá vôi cao chót vót với nhiều hang động, khe hở, thung lũng ẩn náu để ẩn náu và luyện quân. Sông bach dang là con đường giao thương chính giữa đồng bằng và biển đông và là cửa ngõ phía đông bắc. Vì vậy, để tiến vào vùng trung tâm châu thổ Giao Châu, quân Nam Hán phải đi qua cửa sông Baidang.

Tận dụng địa hình và điều kiện thủy triều ở cửa sông Bakhdang, Wu Quan cho binh lính và dân quân chặt những cây cao, cứng thành những chiếc cọc nhọn rồi dùng đầu sắt che lại rồi lùa thành hàng xuống sông. Cửa sông dài mạnh hai bên, chỉ còn lại một đoạn hẹp giữa dòng khi thủy triều xuống. Ngoại quy cũng tập trung quân lớn mai phục hai bên bờ sông và một đoạn phía trên bãi cọc. Dưới sân bố trí vài toán quân nhỏ để thách thức chiến tranh loạn lạc.

Vào cuối năm 938, khi quân đội tập trung trên sông Bakhdang, Wu Quan đã cử một đội quân nhỏ đến thách thức nó trên một chiếc thuyền nhẹ và bỏ chạy. Chiến hạm của Huang Tao lập tức đuổi sâu vào cửa sông Bachtang và băng qua bãi khi thủy triều lên. Khi chiến thuyền cuối cùng của quân Nam Hán bắt đầu xuất trận, cũng là lúc quân bình xuống, dưới sự chỉ huy của Ngô Quân, đại quân từ thượng nguồn lao ra tát cạn mặt nước của chiến thuyền chỉ huy quân Nam Hán. . Cùng lúc đó, quân mai phục hai bên sông cũng xông ra tấn công chiến hạm. Rơi vào trận địa mai phục, ông vội ra lệnh cho chiến hạm rút lui, nhưng thủy triều rút mạnh, từ mặt đất mọc lên hàng đinh, tàu lớn không kịp quay đầu. Đồng thời, bộ đội chủ lực tấn công trực diện, bộ đội nhỏ ở hạ lưu lao ra, chặn đường thoát của cánh quân phía nam. Kết quả là quân Nam Hán đại bại và chết chìm dưới đáy sông Bachtang.

Nghe tin thất trận, vua mất, vua bàng hoàng ra lệnh rút quân, từ bỏ ý đồ xâm lược nước ta. Chiến thắng Bachdang năm 938 được ghi vào lịch sử, thể hiện tài năng quân sự và ý chí quyết thắng của Ngô Quân, đồng thời khẳng định nền tự chủ của nước ta sẽ tiếp tục được giữ vững. Thắng lợi của đảng Bạch còn thể hiện trí tuệ và sự trưởng thành của nhân dân ta trước kẻ thù, không chỉ qua chiến tranh du kích, mà ở một mức độ nhất định qua cách đánh thông thường, không chỉ trên bộ mà cả trên chiến trường. qua các trận hải chiến.

Khi điểm lại chiến công của Ngô Quân, một sử gia ngô nghê đã nhận xét: “Chiến thắng sông Bakhdang là cơ sở để khôi phục sự thống nhất quốc gia. Chiến công của ba triều đại Đinh, Lý, Lý, Trần vẫn phụ thuộc vào sức mạnh to lớn để lại .. . Màu trắng này Khi ra trận, là một vũ nữ cao quý, vang dội qua các thời đại, chẳng phải chỉ có lúc đó mới nổi tiếng sao ?? Chỉ bây giờ. “

ii / Dòng họ Ngô – dòng họ Đinh – dòng họ Tiền Lê (939 – 1009)

1 / Nhà ngô (939-965)

Năm 939, sau khi đánh bại cuộc xâm lược lần thứ hai của quân Nam Hán, Ngô Quân tự xưng là vua, bãi bỏ chế độ đế quốc, thành lập triều đình mới và chiếm đóng đô cũ của Châu Âu là Cổ Ổ. Mất năm xưa (Đông Anh – Hà Nội ngày nay) làm thủ đô. Xem thêm: Chàng trai ở Thái Lan đó là ai

ngo quyen lên đường thành lập quốc gia độc lập. Ông cho thành lập cơ quan quản lý nhà nước ở triều đình trung ương, khôi phục các ngạch quan chức dân sự và quân sự, chuẩn hóa nghi thức triều đình. Về địa phương, các châu, huyện không thay đổi, giáp, làng vẫn là đơn vị hành chính, giữ vai trò quản lý của các hào trưởng. Ngoài ra, ông còn tìm cách thiết lập các mối liên kết địa phương và khu vực phù hợp với các quy định của trung ương để ngăn chặn xu hướng phân biệt Shaki. Bằng những nỗ lực của chúng tôi, một hệ thống quản lý hành chính quốc gia thống nhất đã được hình thành trong một thời gian ngắn, với đặc điểm của một nhà nước tập trung.

Sáu năm sau, năm 944, Ngô Quân mất, đất nước lâm vào thời kỳ loạn lạc, tranh giành ngôi báu, tranh giành cát cứ, nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra: “Lúc bấy giờ (Đinh Mão-965) , đất nước không có chủ nhân, và mười hai lãnh chúa đang chiến đấu để làm thủ lĩnh., không ai thuộc về … “

2 / Triều đại Hẹn hò (968-980)

dinh bo linh (con trai dinh cong tru), quê Hoa lu ​​- chau dai hoang (nay Ninh Binh). Ding Baolin đã thể hiện tài năng và trí tuệ của người chỉ huy ngay từ khi còn nhỏ. Ông tạo dựng uy tín, thu phục lòng dân, thành lập lực lượng hùng hậu ở vùng Hualu, củng cố và mở rộng vùng chiếm đóng của mình. Ông liên kết với hoàng đế tran thinh của đội quân Shari ở phía nam đồng bằng bắc bộ với địa thế hiểm trở. Là một nhà chiến lược, các dinh bộ linh sử dụng nhiều chiến thuật khác nhau, tùy theo từng sứ quân mà cách đánh của mình có phù hợp hay không (bằng quân sự hay liên quân, hoặc bằng kế hoạch, thương lượng …). Được sự ủng hộ của nhân dân, ông đã chiến thắng ở đâu đó, vì vậy ông được gọi là Vua Wansheng.

Năm 968, Đinh Baoling lên ngôi và được phong là Định Thiên Hoàng. Năm 970 được coi là thời đại Thái Bình, thể hiện sự độc lập và tự quyết của vương triều.

Để bảo vệ đất nước, Ding Tianhuang đã thành lập một đội quân thường trực khổng lồ. Ông xây dựng cung điện, thiết lập triều đình, thu phục các quan chức, quan lại, phong cho con trai là Ding Lian làm vua Nanyue và phong cho mười tướng của mình là Li Huan. Anh ta quản lý toàn bộ dân cư và lãnh thổ. Một phần ruộng đất được giao cho cán bộ, công chức và thành viên hoàng tộc, phần còn lại giao cho làng xã, ruộng chung chia đều đặn thường xuyên cho nông dân canh tác.

Vào tháng 10 năm 979, dinh tien hoang và con trai dinh lien bị giết bởi do. Do đó, các triều thần đã phong cho con trai thứ hai của Ding Tianhuang là Dingquan khi mới 6 tuổi. Mười vị tướng của Lý Huân lên làm nhiếp chính và tự xưng là tổng đốc.

Nội bộ nghi kỵ lẫn nhau dẫn đến rối loạn, các tướng kéo quân chống lại Lý Huân. Đồng thời, nhà Tống (Trung Quốc) cũng lợi dụng tình thế rối ren ở nước ta kéo quân sang tấn công.

3 / Sân trước (980 – 1009)

Trước tình hình đó, hoàng thái hậu của mẹ định toan giao cho hoàng hậu chuẩn bị đánh quân xâm lược. Nghĩa quân Lê Huân Ân lãnh đạo quân dân, tổ chức kháng chiến.

Lý Huân lên ngôi, xưng là hoàng đế, tức là hoàng đế của nhà Hán. Tên thời đại được đổi thành Tianfu, và Pear House (được gọi là ngôi nhà cũ trong lịch sử) được thành lập. Sau khi lên ngôi, ông đã đích thân lãnh đạo công việc phòng thủ, chỉ huy thành công cuộc chiến chống quân xâm lược từ năm 980 đến năm 981.

Sau khi Wu Quan chống lại quân Nam Hán năm 938, Li Dahan chiến đấu chống lại nhà Đường vào năm 980-981, cho thấy nghệ thuật quân sự của thế kỷ thứ 10 đã đạt đến một tầm cao huy hoàng. Sau chiến thắng, Li Dahan tập trung xây dựng đất nước.

Vào thời điểm này, công nghệ canh tác lúa nước đã đạt đến trình độ rất cao. Hệ thống thủy lợi điều tiết nước vùng Đồng bằng sông Hồng bước đầu được triển khai. Một số sông và kênh đã được nạo vét và một số kè sông lớn đã được hình thành để kiểm soát lũ lụt. Sự đơn giản và nhẹ nhàng của thuế cho thuê nhà nước trong thời kỳ thành lập đã giúp khuyến khích sản xuất nông nghiệp và thiết lập sự ổn định quốc gia. Năm 968, nhà Đinh ra lệnh đúc tiền “thái bình thông bảo”, đến năm 984, nhà Lê cho đúc tiền “thiêm thiếp”. Đây là những đồng tiền đầu tiên được phát hành dưới danh nghĩa một quốc gia độc lập. Việc phát hành tiền chứng tỏ sự phát triển của thương mại và sự gia tăng của việc mua bán và trao đổi hàng hóa. Thủ đô Hualu là trung tâm văn hóa lớn nhất cả nước. Có nhiều công trình kiến ​​trúc vừa mang tính chất cung đình vừa mang tính bình dân. Đạo Phật rất phát triển. Các nhà sư được triều đình kính trọng và sủng ái, được mời tham gia các công việc nhà nước và giữ các chức vụ quan trọng. Vào thời cổ đại, các tu sĩ Brahma rất được vua chúa kính trọng và thường tham khảo ý kiến ​​của ông về những vấn đề quan trọng.

Lai Dahan trị vì trong 24 năm và mất năm 1005 ở tuổi 65. Sau khi ông qua đời, các hoàng tử đã tranh giành ngai vàng. Cuối cùng, Li Longding đã lên ngôi. Lelondin không phải là một vị vua tốt, ông thực hiện các chính sách man rợ (đốt người, xẻ thịt, thả người xuống sông …), hành vi chống đối, khinh thường triều thần, uống rượu, làm vui lòng dân. Lòng rất hụt hẫng. Ông trị vì được 4 năm thì mất (1005-1009).

Vào cuối triều đại, có một cuộc nổi dậy trong cơn bão cát. Triều đình áp dụng các chính sách quân sự để duy trì sự thống trị của mình. Đời sống người dân trở nên khốn khó vô cùng. Thêm vào đó, sự cai trị vô cùng tàn bạo của Li Longding đã làm gia tăng sự phẫn nộ, bất mãn và căm thù của người dân, binh lính, quan chức và nhà sư ở sân trước. Vì vậy, sau khi Lý Long Độn qua đời, các quan lại và quân sư tôn Lý Công Nguyên lên làm vua và thành lập nhà Lý vào ngày 2 tháng 11 năm Kỷ Dậu (1009).

ly cong uan, người Pháp cổ (nay là huyện Càn Sơn, Bắc Ninh). Ông vốn là con nuôi của Li Qingwen, một nhà sư ở Gupata, một nhà thông thái. Khi lớn lên, anh trở thành một vị tướng thiên tài, giữ chức Tư lệnh của Cidu (Chỉ huy đội vệ binh) Diiantian, trông coi những lính canh ở sân trước. Ông chiếm được cảm tình và sự ủng hộ của các quan lại, binh lính triều đình và các nhà sư. Khi lên ngôi, ông chọn niên hiệu là Shuntian, và năm Canh Tuất (1010) là năm mở đầu của vương triều.

Tháng 7 năm 1010, Lí Công Nguyên (Lý Thái Tổ) quyết định dời đô từ Hứa Lộc (Ninh Bình) về Thăng Long ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ven sông Hồng (nay là Hà Nội). Lí Công An đã nói trong “Chiếu dời đô”: “Trong lòng trời đất có thể có rồng, có hổ ngồi, ở giữa nam bắc, đông tây, núi non thuận lợi, sông nước, đất rộng, bằng phẳng, núi cao thông thoáng, dân cư không bị lũ lụt, vạn vật hưng thịnh, nơi đây là thắng lợi, chắc là nơi giao thoa của bốn phương, là kinh đô muôn đời của. các kinh sư. ”Vua Lý cũng nói rõ mục đích dời đô là“ mưu chọn chỗ đứng ở giữa, làm người thừa kế đời đời cho con cháu ”.

Việc nhà Lý chuyển từ Nguyên ra Thăng Long là một việc lớn, dời đô đến vùng trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, một vùng đất phì nhiêu, dân cư đông đúc với tiềm năng kinh tế và văn hóa to lớn. Dân tộc, đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới, bắt đầu đi lên với tinh thần rồng bay lên – con rồng bay cao, thể hiện sự vươn lên, thịnh vượng của chế độ phong kiến ​​Việt Nam.

Năm 1010, Li Chao chuyển USD đến Thăng Long

Vùng đất Thăng Long – Hà Nội là một trong những vùng đất có bề dày lịch sử của cả nước. Thăng Long-Hà Nội là “trung tâm của đất nước”, là “chốn kinh thành”, là “nơi giao thoa của bốn phương”. Hà Nội là kinh đô đầu tiên của nhiều triều đại phong kiến ​​Việt Nam, là thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ năm 1945, sau đổi thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện ngày càng sâu sắc về chính trị, nổi bật hơn cả những tiêu biểu về văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội. của đất nước Đặc điểm, trái tim thực sự của đất nước.

Nhân dân cả nước, đặc biệt là nhân dân Hà Nội đang phấn đấu chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long Hà Nội (1010-2010), tích cực giữ vững và phát huy truyền thống vẻ vang. Thăng Long Hà Nội truyền thống dân tộc, xây dựng Thủ đô không ngừng phát triển trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là trách nhiệm cao cả của mỗi người Việt Nam.

Họ Lý chuyển USD ra Thăng Long

Trong thời kỳ loạn lạc những năm cuối của triều đại trước, Lý Công Thanh đã chiếm được cảm tình và sự ủng hộ của các quan lại, triều thần và các nhà sư. Khi đó, Lý Công Nguyên lên ngôi, lấy hiệu là Li Taidu, chọn niên hiệu là Shuntian, và lấy năm 1010 của triều đại.

Vào thời Càn Long, đóng đô ở Hualu (Ninh Bình), nơi núi non hiểm trở, thích hợp cho việc phòng thủ nên khi nhà Lý thành lập, đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới. Vì vậy, tháng 7 năm 1010, Lí Công Nguyên quyết định dời đô ra Thăng Long ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ven sông Hồng.

Thủ đô được dời về khu vực trung tâm của Tam giác Bắc, nơi có sản vật phong phú, dân số đông và tiềm năng kinh tế, văn hóa to lớn, điều đó chứng tỏ dân tộc và đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới.

Hoàng thành Thăng Long có chu vi hơn 20 km và được bao bọc bởi các con sông: sông Hồng ở phía bắc và phía đông, sông Kinu và sông Tô Lịch ở phía nam và phía tây. Năm 1010, vua Li Taituo ra lệnh xây dựng cung điện ở kinh thành Thăng Long, phía trước xây điện Càn Nguyên làm nơi thờ tự, gian bên trái là nơi các thánh tu hành, gian bên phải là nơi giảng dạy. Võ thuật. Cổng Rồng bay được mở bằng Cung Mùa xuân, Cổng Đan Phường nối với Cổng Ngụy, và Cung điện Gaoming được xây dựng ở phía nam. cả hai mặt. Sau cung điện Serihara, hai cung điện Longan và Longshui được xây dựng làm nơi an nghỉ của nhà vua. Yiguang Palace được xây dựng bên trái, Ruan Ming Palace được xây dựng ở bên phải, phía sau hai cung điện Shuihua và Longshui là nơi ở của các cung nữ. Xây dựng kho tàng, xây dựng pháo đài, đào chiến hào. Bốn mặt ở phía nam gọi là Daxiongmen, phía bắc gọi là Diodemen. Năm 1011, nhà vua ra lệnh xây dựng Cung điện nhà Thanh ở bên trái, và một nhà kho báu được xây dựng bên trong thành phố. Năm 1014, vua cho xây các lâu đài bằng đất ở bốn phía của thành Thăng Long. Việc dời đô ra Thăng Long, cũng như nhu cầu xây dựng các công trình tôn giáo, đặc biệt là xây dựng chùa chiền đã tạo điều kiện cho nghệ thuật kiến ​​trúc phát triển mạnh mẽ dưới chế độ pháp quyền.

Vua Lý Tài chia 10 đạo trong nước thành 24 lộ, đổi phủ cổ thành cung điện, đổi Hoa Lư thành cung điện, ung thư cung điện thành Nam Kinh, thị trấn Zhaoyang thành vinhan an. từ các thủ phủ như Châu Huân, Châu Á (từ Thanh Hóa đến Quảng Bình) và các vùng dân tộc thiểu số được cải tạo thành trại tập trung. Dưới lộ có các phủ, châu, đơn vị hành chính cơ bản là hương và giáp. Việc các luật gia phân chia đơn vị hành chính từ trung ương đến địa phương không chỉ thể hiện sự thống nhất của đất nước mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý đất nước.

Đồ gốm từ thời kỳ đó phổ biến khắp nơi, nhưng tập trung nhiều nhất là kinh đô Thăng Long vì có nhiều chất liệu đất phù hợp, giao thông thủy bộ thuận tiện. Việc xây dựng kinh đô Thăng Long thuở ban đầu đòi hỏi phải có một số lượng đáng kể gạch ngói, gốm sứ và đồ sành sứ. Các loại gạch ngói dùng để xây dựng cung điện, đình chùa, nhà ở thời triều đại có nhiều hình dáng đa dạng theo yêu cầu của công trình xây dựng, đặc biệt là loại gạch “đại việt quan thanh chuyển” kích thước 30x30cm có chạm nổi hình phượng hoàng hoặc hoa cúc.

Việc dời đô ra Thăng Long đã biến Thăng Long thành một trung tâm thương mại sầm uất, kích thích hoạt động kinh tế của vùng Đồng bằng sông Hồng. Vị trí của thành Thăng Long được nhắc đến trong đô thị là nơi giao thoa của bốn phương nên có nhiều điều kiện phát triển thuận lợi cho các hoạt động thương mại ở đây. Trên thực tế, Thăng Long có 61 phố phường, hầu hết là phường buôn bán, trừ một số chuyên sản xuất thủ công mỹ nghệ, trao đổi hàng hóa và sản phẩm từ khắp nơi trong nước. Thủ đô đã hình thành một số chợ quy mô lớn như chợ Đông, chợ Tây, chợ Nam, chợ Giang Khẩu thường thu hút đông đảo người dân đến mua bán. Kinh đô Thăng Long đã trở thành một trung tâm thương mại lớn. Một nhóm doanh nhân chuyên nghiệp, giàu có và quyền lực nổi lên. Để đáp ứng các hoạt động thương mại, Li Chao đã phát hành các loại tiền đồng khác nhau để lưu hành khắp cả nước. Nhà nước triều đại độc quyền sản xuất và đặt một xưởng đúc tiền ở kinh đô Thăng Long (lý thai để đúc tiền thủ nguyên bảo; lý thai tông đúc tiền can phủ nguyên bảo, minh đạo thông bảo; lý nhân tông đúc tiền). phu nguyen bao tien, ly than tong in thien thuan thong bao xu …)

Ủy ban các vấn đề công cấp huyện

(Tham khảo: Lịch sử Việt Nam, Hội đồng Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh tập 2-3 – Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Trẻ, 2007).