- Đau sau đột quỵ : Đau sau đột quỵ có thể xuất hiện và phát triển vài tuần hoặc vài tháng sau đó. Đó là một cơn đau não đột ngột khi dòng máu đến não bị cắt, khiến các tế bào não bị thiếu oxy nghiêm trọng. Từ đó, các tế bào não bắt đầu chết, dẫn đến mất trí nhớ và khả năng kiểm soát cơ bắp.
Sau đột quỵ, gần như mọi cơ quan và hệ thống thần kinh đều có thể chịu hậu quả nghiêm trọng, dẫn đến các triệu chứng đau đớn khắp cơ thể. Tổn thương hệ thần kinh là sự phá vỡ lớp bảo vệ bên ngoài của vỏ myelin, khiến các xung điện bắn ra không kiểm soát và gây đau.
- Đau sau phẫu thuật : Thường sau phẫu thuật, các tế bào thần kinh bị tổn thương dẫn đến những cơn đau dai dẳng và kéo dài. Các loại đau do thần kinh do phẫu thuật bao gồm:
- Đau dây thần kinh trung ương: Đau bắt nguồn từ chấn thương não hoặc tủy sống, thường xảy ra khi phẫu thuật não hoặc thần kinh cột sống.
- Đau do thần kinh ngoại biên : Loại đau này bắt nguồn từ các dây thần kinh không thuộc về não hoặc tủy sống. cuộc sống, chẳng hạn như các dây thần kinh của bàn tay và bàn chân.
Cũng có những bệnh có thể gây đau đầu mãn tính
- Đau đầu do khối u não
Đau đầu xuất hiện trong giai đoạn đầu của bệnh. Đau đầu thường có tính chất tăng dần, nặng dần và thường kèm theo các triệu chứng khác tùy theo vị trí và tính chất của khối u. Ban đầu, vị trí đau đầu thường cố định ở vùng có khối u. Khi khối u phát triển, nó sẽ chèn ép các mô xung quanh, gây tăng áp lực trong hộp sọ, gây ra cơn đau lan tỏa khắp đầu.
Đau đầu hiếm khi dữ dội, thường chỉ âm ỉ, nhưng dai dẳng và ngày càng nặng hơn, hoặc dữ dội hơn vào nửa đêm và buổi sáng, sau đó giảm dần hoặc hết khi thức dậy. Cơn đau trầm trọng hơn khi vận động gắng sức (như ho, rặn, đại tiện …) hoặc thay đổi tư thế đột ngột (như ngồi và nằm).
Trong giai đoạn đầu của bệnh, các loại thuốc giảm đau thông thường như aspirin và paracetamol có thể giảm đau. Sau đó, những loại thuốc này không còn hiệu quả nữa.
Một triệu chứng khác thường đi kèm với đau đầu, chẳng hạn như buồn nôn hoặc nôn, xảy ra ở giai đoạn sau và không liên quan đến việc ăn uống. Bệnh nhân dễ nôn, nôn nhanh, nôn xong đỡ đau đầu. Một triệu chứng thường gặp khác là co giật hoặc rối loạn tâm thần (khi có khối u não ở thùy trán hoặc thùy thái dương) như thay đổi tâm trạng, giảm hoạt động, mất ý thức … Ngoài ra còn có nhiều triệu chứng khác liên quan đến vị trí và tính chất của khối u. Đau đầu như suy nhược, liệt nửa người, liệt mặt, lác, nhìn mờ hoặc nhìn đôi, ù tai, chóng mặt.
Nhiều tình trạng khác có thể gây đau đầu tương tự như u não. Vì vậy, để chẩn đoán chính xác hoặc loại trừ các bệnh lý khác, cần phải nhờ bác sĩ chuyên khoa thần kinh kiểm tra, đồng thời làm thêm một số xét nghiệm như điện não đồ, chụp cắt lớp vi tính, chụp mạch não, chụp cộng hưởng từ mri …
Trong số đó, điện não đồ nên được thực hiện trước tiên, vì đây là một xét nghiệm vô hại, rẻ tiền, dễ thực hiện và quan trọng hơn, nó giúp phát hiện sớm các khu vực bất thường trong não để hướng dẫn các bác sĩ tiếp tục điều trị khối u não. hình ảnh.
p>
Nguyên nhân cơ bản của đau đầu được điều trị bằng cách phẫu thuật cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ khối u. Nếu khối u ở vị trí không thể phẫu thuật, có thể tiến hành phẫu thuật dẫn lưu dịch não tủy hoặc hóa trị, xạ trị. Điều trị triệu chứng cơn đau chủ yếu là dung dịch mannitol, corticoid, thuốc lợi tiểu furosemide để điều trị tăng áp lực nội sọ và phù não …
- Chứng đau nửa đầu
Thường gặp ở tuổi trưởng thành, phụ nữ nhiều hơn nam giới. Bệnh có tính chất gia đình, thường khu trú ở một bên đầu, diễn biến theo chu kỳ với các triệu chứng lâm sàng thay đổi. Có hai loại đau nửa đầu chính: