Tìm hiểu về lịch sử Văn minh Sông Hồng.
Thời kỳ văn lang – âu lạc tồn tại trong lịch sử Việt Nam vào khoảng năm 2000 trước Công nguyên. Bằng sức lao động sáng tạo và sự kiên trì, bền bỉ, người Việt cổ đã góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiến bộ vượt bậc về phát triển kinh tế, xã hội và đạt được nhiều thành tựu. Một thành tựu to lớn, tiêu biểu là sự hình thành và phát triển của nền văn minh đầu tiên của nước ta: Văn minh Lang – au lac (Văn minh sông Hồng) .
Nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc (văn minh sông Hồng) được hình thành cùng với sự hình thành nhà nước Văn Lang và sự phát triển đời sống vật chất, tinh thần của người Việt cổ.
Nền văn minh văn lang – âu lạc có lịch sử lâu đời, bắt nguồn từ cư dân canh tác lúa nước ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, mang đậm nét thổ dân, là kết quả của bản lĩnh, truyền thống và bản lĩnh. Tiếng Việt cổ.
Nền văn minh văn lang-âu lạc đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, từ phung nguyên đến đồng sơn, từ sơ kỳ đồ đồng đến sơ kỳ đồ sắt; quá trình ra đời.
Văn minh Văn Lang-Orle đã trở thành cội nguồn của nền văn minh tiếp theo của dân tộc Việt Nam, đặt nền móng vững chắc đầu tiên của bản sắc dân tộc, là cội nguồn sức mạnh tinh thần để nhân dân ta vượt qua thử thách gian khổ hơn một ngàn năm cai trị.
Cơ sở hình thành nền văn minh sông Hồng:
Niềm tin vào tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, anh hùng và lãnh tụ đã phát triển từ ý thức cộng đồng. Cụ thể, trong tư tưởng của các cư dân thời bấy giờ, các cư dân Yunlang-Youleguo đều có chung một nguồn gốc và cùng một tổ tiên. Ngoài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mới xuất hiện, những người đương thời còn giữ lại tàn tích của các hình thức tôn giáo nguyên thủy, chẳng hạn như tín ngưỡng vật tổ, ma thuật, nghi lễ sinh sản và thu hoạch, và các nghi lễ phát triển về chủng tộc. Nhiều phong tục tập quán đã được hình thành, cho thấy sự phong phú và phát triển trong đời sống tinh thần của xã hội Hongwang, như thói quen ăn đất, thói quen uống nước bằng mũi, thói quen gõ cối (ra lệnh, đi qua điệp), cưới hỏi, đính hôn, tang lễ, Mai táng, mộ quan tài hình con thuyền, táng xếp chồng lên nhau, úp xoong nồi, an táng theo vật thực.
Lễ hội rất phổ biến và nổi tiếng vào thời đó và là một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của nhà văn Orle. Các lễ hội diễn ra rải rác trong năm, đặc biệt nhất là lễ hội Thu hoạch, với nhiều nghi lễ như đâm trâu, bò gai, cũng như các hình thức diễn xướng dân gian khác (dân gian hóa trang, đi bộ múa, cầm giáo, phóng lao. ), nhạc cụ …). Ngoài ra, còn có các cuộc thi tài năng, thi sức khỏe, lễ hội đâm trâu, lễ cầu nước, chúc Tết …
Trong cuộc sống, cư dân thời Hùng Vương rất thích cái đẹp và có xu hướng làm đẹp. Đồ trang sức, công cụ và vũ khí không chỉ vô cùng phong phú, mà còn có trình độ công nghệ và nghệ thuật cao, một số thứ có thể coi là tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật Dongshan đã trở thành đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình vào thời kỳ Hongwang. Nghệ thuật này phản ánh cả cuộc sống hàng ngày của cư dân Việt Nam cổ đại và mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, với những đường nét truyền thống, cách điệu, bố cục đối xứng và hài hước. bức tranh.
Nghệ thuật âm nhạc cũng phát triển. Nhiều nhạc cụ được chế tạo với trống đồng, trống da, chuông âm nhạc, phách và nhạc cụ hơi và sử dụng bộ gõ. Trong số các loại nhạc cụ, tiêu biểu nhất là trống đồng. Cấu tạo của trống đồng gồm mặt trống, thân trống có sừng và chân trống giúp tạo hình mặt trống đẹp và có độ vang để vang âm thanh. Cư dân thời đó đã biết sử dụng nhiều nhạc cụ để phối hợp tổ chức lễ hội.
Trên trống đồng Đông Sơn, có cảnh có 2 đến 4 chiếc trống đồng, 6 đến 8 chiếc chiêng, và cảnh một nhóm người đang nhảy múa với các nhạc cụ khác nhau như chuông, dệt và thần. Trên mặt trống có hình ảnh những người múa trong trang phục. Có những bức tượng đồng
dong son cho thấy hai người ôm nhau vừa thổi sáo vừa khiêu vũ.
Trống đồng là di vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn và văn minh Honghe. Trống đồng loại i (phân loại theo f.heg) là loại trống đồng sớm nhất và tinh tế nhất, được sử dụng rộng rãi như một nhạc cụ quan trọng trong các lễ tế, lễ hội, tế lễ và múa. Trống đồng Đông Sơn cũng có thể được sử dụng làm tín hiệu để chiến đấu, duy trì an ninh, tang lễ và giao thương trong và ngoài nước (với Malaysia, Indonesia, v.v.). Trống đồng với những đặc điểm trên là sản phẩm của lao động, là tác phẩm nghệ thuật thể hiện trình độ tri thức và khả năng sáng tạo tuyệt vời của cư dân Wenlangnaole, là biểu hiện tập trung của nền văn minh Honghe. .
Ngoài trống đồng, lâu đài Loya còn thể hiện sự phát triển cao của cư dân thời Văn Lang-Shan Lu.
+ Tổ chức xã hội: Nguyên thủ quốc gia Văn Lang-Ole là vua, cha truyền con nối. Các phụ tá của nhà vua mất các cận thần và tướng lĩnh. Nhà nước Văn Lang có một quân đoàn sĩ quan thường trực với vũ khí bằng đồng như hỗ trợ chiến tranh, giáo mác, dao găm. Đặc biệt, việc sử dụng cung, nỏ rất thành thạo, một số có thể bắn nhiều mũi tên cùng một lúc. Trong thời kỳ Ole, nhà vua đã thành lập kinh đô của mình tại thành phố cổ Roja.
Đơn vị xã hội cơ bản của người Việt cổ là làng, trưởng làng do cha chính (thường là trưởng làng) đứng đầu, dân thường trong làng gọi là dân lạc. Trong làng, tinh thần cộng đồng rất mạnh. Họ đã chung sống, giúp đỡ nhau, đoàn kết chống giặc ngoại xâm.
Một số đặc điểm của nền văn minh sông Hồng:
+ Thuật ngữ kỹ thuật: Nền văn minh Hồng Hà được hình thành và phát triển trên cơ sở cuộc cách mạng luyện kim, nghề đúc đồng dần được hoàn thiện (tiêu biểu là văn hóa Đông Sơn). Và trên cơ sở đỉnh cao của nghề đúc đồng, các bậc thầy của nền văn hóa đã bước vào thời kỳ đồ sắt sớm.
+ Về kinh tế: Nền văn minh sông Hồng thực chất là nền văn minh nông nghiệp, Việt Nam cổ đại sống ở đới nhiệt đới gió mùa, trồng lúa nước trên đất nước và biển với nhiều sông, núi, rừng và đồng bằng.
+ Về mặt xã hội: Nền văn minh Hồng Hà là nền văn minh nông thôn, dựa trên cấu trúc nông thôn kiểu Á Đông, xã hội chưa phân hóa sâu và rõ rệt, là một quốc gia mới hình thành. Tổ chức đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống thiên tai, khẩn hoang, lấy nước làm thuỷ lợi, tự vệ, chống thiên tai là phát triển công xã, đại diện cho lợi ích chung của công xã. cuộc xâm lăng.
+ Văn minh sông Hồng là nền văn minh bản địa đậm nét thể hiện bản lĩnh, truyền thống, tính cách, lối sống, cách sống của người Việt cổ: đoàn kết, cần cù lao động, đoàn kết, tương thân tương ái, đoàn kết, lao động, tinh thần đoàn kết. Tinh thần quật cường, đầy lòng yêu nước, kính yêu người cao tuổi, nhớ ơn tổ tiên, anh hùng liệt sĩ …; có cội nguồn sâu xa và là cơ sở sâu xa trong sự trường tồn của cư dân vùng Văn Lang-Orle xưa.
+ Nền văn minh sông Hồng cũng nhanh chóng thiết lập mối quan hệ giao lưu chặt chẽ với các nền văn minh lân cận, đặc biệt là nền văn minh Trung Hoa và nền văn minh Ấn Độ.
Vì vậy, nền văn minh văn lang-âu lạc hay nền văn minh Việt cổ được gọi theo tên của thời điểm xuất hiện; nền văn minh sông Hồng được đặt tên theo khu vực (lưu vực sông Hồng) mà nó xuất hiện. Nhưng trên thực tế, khu vực van lang-au lac hay nền văn minh cổ Yue, ngoài lưu vực sông Hồng, còn bao gồm các bãi sông lớn khác ở khu vực bắc trung bộ như sông Mã, sông Cả. ..
Khảo cổ học chứng minh rằng xu hướng chủ đạo của sự hình thành nền văn minh sông Hồng là xu hướng văn hóa lớn lên trên vùng đất phì nhiêu của châu thổ sông Hồng. Tại khu vực này, từ đầu thời đại đồ đồng đến đầu thời đại diệt vong, sự hình thành và phát triển của dân cư nông nghiệp trồng lúa nước, là hạt nhân đầu tiên của người Việt, là chủ nhân của làng xã. nền văn minh Việt cổ.
Theo quá trình phát triển, văn hóa Phung Nguyên (đầu thời đại đồ đồng) là cội nguồn của nền văn minh Hồng Hà. Giai đoạn văn hóa tiếp theo là Văn hóa Dongdou (giữa thời đại đồ đồng) và văn hóa Gumen (cuối thời đại đồng thau), là quá trình chuẩn bị trực tiếp cho sự ra đời của nền văn minh Honghe. Thời kỳ văn hóa Đông Sơn (đầu thời đại đồ sắt). Ngoài dòng chính còn có văn hóa Hủa Lộc, văn hóa Hạ Long của cư dân các đảo ven biển và đông bắc thời kỳ cuối (muộn đồ đá mới).
Nếu ở giai đoạn tiền văn hóa Đông Sơn các nền văn hóa đã có mối liên hệ với nhau, nhưng về cơ bản vẫn còn mang đậm dấu ấn địa phương gắn liền với từng nhóm cư dân trong từng khu vực nhất định thì đến giai đoạn văn hóa Đông Sơn dù là di chỉ được phát hiện ở đâu, thuộc lưu vực sông Hồng, sông Mã hay sông Cả, dù ở miền đồng bằng châu thổ hay miền núi, mặc dù mỗi vùng vẫn có phong cách riêng nhưng tất cả đều mang những đặc trưng chung của văn hóa Đông Sơn, với những di vật tiêu biểu như: Trống đồng, thạp đồng, thố, dao găm, giáo, dìu, lưỡi cày,… Đây rõ ràng là một nền văn hóa thống nhất của một cộng đồng quốc gia, một cộng đồng bộ tộc đã có sự liên kết với nhau trên một lãnh thổ, một nền tảng kinh tế – xã hội và một lối sống chung. Giai đoạn Văn hóa Đông Sơn là chặng đường cuối, là sản phẩm tổng hợp, là đỉnh cao của quá trình tạo thành nền văn minh sông Hồng. Quá trình hình thành nền văn minh sông Hồng cũng chính là nền hình thành cư dân Việt cổ và tiếng Việt cổ.
Sau muôn vàn khó khăn gian khổ, người Việt cổ đã xây dựng nên nền văn minh đầu tiên, nền văn minh sông Hồng – một nền văn minh bản địa đã trở thành cội nguồn của các nền văn minh khác. Bước tiếp theo trong sự phát triển của dân tộc Việt Nam đã đặt nền móng vững chắc cho bản sắc dân tộc, là cội nguồn sức mạnh tinh thần để dân tộc Việt Nam đứng vững, vượt qua thử thách to lớn của hơn một nghìn năm thống trị.
(Tổng hợp)