Tại sao phải sở hữu vốn cổ phần đối với các doanh nghiệp nhà nước?
Trong chế độ sở hữu vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước ngày nay, thì sở hữu vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước đã trở thành xu thế chung, đưa đến những bước phát triển vượt bậc trong sản xuất và hoạt động, và là một trong ba trụ cột của cải cách hệ thống kinh tế. , đổi mới để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp. Vậy vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước là gì? Tại sao phải sở hữu vốn cổ phần của doanh nghiệp nhà nước? Chúng tôi mời bạn tuân theo các điều khoản pháp lý sau đây.
1. Vốn chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước là gì?
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp nhà nước (doanh nghiệp một chủ) thành công ty cổ phần, hoạt động theo quy chế của công ty cổ phần Việt Nam. Luật Công ty 2020.
Theo khái niệm này, đối tượng sở hữu vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước là chỉ các doanh nghiệp nhà nước 100% vốn sở hữu nhà nước. Loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước tham gia, góp vốn thì không được vốn hóa. Doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần là tổ chức doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, vốn hoạt động do nhiều người góp vốn dưới hình thức cổ phần.
Từ nội dung trên có thể đưa ra khái niệm về vốn chủ sở hữu: “Vốn chủ sở hữu là quá trình thực hiện xã hội hóa sở hữu và chuyển doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần do các cổ đông thuộc các thành phần kinh tế nắm giữ. Mua cổ phần.”
2. Tại sao lại sở hữu vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước?
2.1. Những tồn tại trong quản lý doanh nghiệp nhà nước
Trước năm 1985, “các DNNN nắm giữ phần lớn tài sản cố định và vốn lưu động, có gần 3 triệu lao động, tạo ra 35% -40% GDP và đóng góp hơn 50% ngân sách quốc gia.” Trong thời kỳ này, nền kinh tế nước tôi vẫn nằm trong hệ thống quản lý kế hoạch hóa tập trung, các doanh nghiệp nhà nước sản xuất và kinh doanh hàng hóa dưới sự chỉ huy của nhà nước. Tuy nhiên, việc duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã đưa nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, thua lỗ, thua lỗ. Nguyên nhân của việc doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả là do doanh nghiệp dựa vào bao cấp của nhà nước khiến doanh nghiệp bị động dẫn đến năng suất thấp, chất lượng kém. Thực tế này dẫn đến việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước để khắc phục tình trạng trên.
Từ sau Đại hội VI năm 1986, Đảng đã xác định nền kinh tế quốc dân vẫn là chủ đạo, nhưng không chiếm vị trí độc tôn trong nền kinh tế, mà chỉ chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Trong thời kỳ này, chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước là một trong những nội dung quan trọng của quá trình chuyển đổi nền kinh tế, với việc xoá bỏ dần chế độ bao cấp xí nghiệp quốc doanh, quyền tự chủ của doanh nghiệp từng bước được mở rộng. Các doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước đang thực hiện sắp xếp lại theo hướng giải thể các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Ngoài ra, bắt đầu từ năm 1992, chương trình thí điểm cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cũng bắt đầu. “Tuy nhiên, công tác cổ phần hóa và cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước mới chỉ làm giảm tổng vốn doanh nghiệp khoảng 6-8%, doanh nghiệp nhà nước bị chiếm dụng, nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, nhà nước chưa bao cấp. đã bị xóa bỏ, nhưng được tái lập dưới nhiều hình thức khác nhau; Đặc biệt, việc chuyển doanh nghiệp độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp nhà nước nguy hiểm hơn độc quyền tự nhiên trong nền kinh tế thị trường, vì khả năng hình thành nhóm lợi ích độc quyền. với ảnh hưởng của chính sách là rất cao.
Trong thời gian qua, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam còn nhiều hạn chế. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao. Tính đến năm 2015, “Doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam chiếm 70% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn nhà nước, 60% tín dụng, 79% tổng nợ xấu của các ngân hàng thương mại và 70% vốn ODA, nhưng chỉ góp khoảng 30%, chiếm tỷ trọng trong tốc độ tăng trưởng GDP, nhiều doanh nghiệp nhà nước có năng suất lao động thấp, hiệu quả hoạt động không đạt như kỳ vọng đã trở thành gánh nặng cho ngân sách quốc gia. hoạt động sản xuất và điều hành của doanh nghiệp nhà nước, cụ thể như sau:
Thứ nhất doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện được quyền tự chủ về tài chính và tự chủ về sản xuất, hoạt động. Các DNNN vẫn chưa chủ động trong việc huy động vốn và quản lý tài sản, chỉ một số ít có chiến lược huy động vốn cụ thể. Do chủ doanh nghiệp là nhà nước nên doanh nghiệp luôn ở thế bị động hoặc phụ thuộc vào sự ra quyết định của nhà nước, người quản lý doanh nghiệp là người nắm rõ nhất tình hình của doanh nghiệp, có quyền. quyết định một cách độc lập mọi vấn đề quan trọng của doanh nghiệp. Do đó, các quyết định liên quan đến hoạt động tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh không thể đưa ra kịp thời, hoặc quyết định sai lầm vì phụ thuộc vào sự chỉ đạo của quốc gia. .
Thứ hai, năng lực quản lý của người quản lý doanh nghiệp nhà nước kém, cơ chế quản lý doanh nghiệp còn bất hợp lý, kém hiệu quả. Trong doanh nghiệp nhà nước, người quản lý doanh nghiệp chỉ đơn giản là người được nhà nước chỉ định để đại diện phần sở hữu cổ phần, không phải là chủ sở hữu của doanh nghiệp. Do đó, trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không cao. Ngoài ra, người đại diện vốn nhà nước tại các DNNN thường làm việc một nhiệm kỳ, khiến những cá nhân này không có kiến thức, kinh nghiệm và hiểu biết chuyên sâu để điều hành doanh nghiệp. Vì vậy, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp không thể hướng dẫn, giám sát tốt hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, dẫn đến hiệu quả sản xuất và hoạt động của doanh nghiệp thấp.
Trong trường hợp này, việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là cần thiết, vì cổ phần hóa sẽ tăng tính chủ động của doanh nghiệp và đưa ra các quyết định liên quan đến các vấn đề lớn của doanh nghiệp. Chính xác, kịp thời và không phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước, vì doanh nghiệp sau cổ phần sẽ là doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu chứ không chỉ là một chủ sở hữu duy nhất của nhà nước. Ngoài ra, việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần sẽ làm thay đổi cơ chế quản lý của doanh nghiệp. Người quản lý công ty cổ phần có thể là cổ đông của công ty cổ phần hoặc người làm công tác quản lý, người quản lý phải có trình độ chuyên môn tốt, có tinh thần trách nhiệm cao. Do đó, việc sở hữu cổ phần của doanh nghiệp nhà nước sẽ khắc phục được những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước, từ đó từng bước thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng hiệu quả.
2.2. Ưu điểm của công ty cổ phần so với các loại hình doanh nghiệp khác
Để thực hiện đa dạng hóa chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước cần phải chuyển thành công ty cổ phần, có đặc điểm là không hạn chế số lượng chủ sở hữu.
Về bản thân doanh nghiệp, so với các loại hình doanh nghiệp khác, công ty cổ phần có nhiều lợi thế giúp doanh nghiệp phát triển và cạnh tranh trên thị trường, cụ thể như sau:
Thứ nhất , công ty cổ phần có khả năng huy động vốn dễ dàng mà các loại hình doanh nghiệp khác không có. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp chia vốn điều lệ thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, loại hình doanh nghiệp này không hạn chế số lượng cổ đông tối đa. Do đó, nếu các loại hình doanh nghiệp khác chỉ có thể huy động vốn thông qua vay vốn ngân hàng (như công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn) hoặc bằng cách phát hành trái phiếu (như công ty trách nhiệm hữu hạn) thì công ty cổ phần cũng có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, chứ không phải hình thức khác khó khăn hơn Một hình thức tài trợ, chẳng hạn như khoản vay ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu. Trong trường hợp vay vốn ngân hàng, nguồn vốn ngân hàng cung cấp (với tư cách là trung gian tài chính) cho doanh nghiệp được huy động từ các đối tượng tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, do đó chi phí để doanh nghiệp vay được từ ngân hàng có thể cao hơn. so với chi phí để doanh nghiệp huy động vốn trực tiếp từ các khoản tiền dự phòng khác trong thực thể nền kinh tế.
Ngoài ra, so với kênh huy động vốn để phát hành trái phiếu, việc phát hành cổ phiếu sẽ khiến công ty không phải chịu trách nhiệm hoàn vốn cho cổ đông, do đó việc phát hành cổ phiếu này sẽ mang lại nguồn ổn định cho công ty. Thủ đô. Điều này giúp cho công ty cổ phần có khả năng tập trung nhanh chóng và dồi dào, thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh quy mô lớn.
Thứ hai so với doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần có nhiều cổ đông sẽ có nhiều quyền tự chủ hơn trong các quyết định điều hành. Nếu doanh nghiệp nhà nước chỉ có một chủ sở hữu là nhà nước chia cho nhiều chủ sở hữu, thường ở thế bị động hoặc trông chờ vào quyết định của nhà nước đối với sản xuất, hoạt động của mình thì những vấn đề lớn của doanh nghiệp sẽ do đại hội đồng cổ đông và quyền biểu quyết của mỗi cổ đông tương đương với Tỷ lệ cổ phần của cổ đông trong doanh nghiệp. Do đó, khi nhà nước không phải là cổ đông của công ty mẹ, thì việc ra quyết định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần sẽ dựa nhiều hơn vào các cổ đông khác. Không cần phải chờ hướng dẫn của chính phủ.
Theo cách này, quyết định về các vấn đề lớn của doanh nghiệp sau cổ phần sẽ không còn phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước. Ngoài ra, công ty cổ phần còn tách bạch quyền sở hữu và quyền quản lý đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giúp cho người quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chủ động, linh hoạt tìm ra và thực hiện các giải pháp kinh doanh có lợi nhất. Do đó nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ quản lý công ty cổ phần đối với hoạt động sản xuất kinh doanh từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba , công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư, công nghệ và trình độ quản lý thông qua tiếp xúc với nước ngoài là rất cần thiết để phát triển kinh tế trong nước. Công ty cổ phần có ưu điểm là huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài trở thành cổ đông của doanh nghiệp và có thể có những đóng góp nhất định vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tư , việc chuyển nhượng phần vốn góp của công ty cổ phần là miễn phí, ngoại trừ một số quy định của pháp luật hạn chế việc chuyển nhượng cổ phần trong công ty. Cổ đông sáng lập hoặc hạn chế chuyển nhượng cổ phiếu ưu đãi có quyền biểu quyết.
Hầu hết luật công ty ở các quốc gia trên thế giới quy định và cho phép chuyển nhượng dễ dàng và miễn phí cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành từ cổ đông sang chủ sở hữu mới.
Pháp luật Việt Nam quy định việc chuyển nhượng phần vốn góp của công ty cổ phần cũng không ngoại lệ. Trong khi đó, đối với công ty TNHH theo quy định của pháp luật Việt Nam, khi thành viên công ty muốn chuyển nhượng phần vốn của mình thì phải ưu tiên cho phần còn lại của công ty và chỉ được chuyển nhượng phần vốn đó. Nếu các thành viên còn lại không mua hoặc mua không hết thì chuyển nhượng cho người không phải là thành viên công ty. Vì vậy, các nhà đầu tư thường muốn đầu tư vào công ty cổ phần hơn là các loại hình doanh nghiệp khác.
Đối với nhà đầu tư, sau khi trở thành cổ đông của công ty cổ phần, nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp. Ngoài ra, nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển vốn đầu tư từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác thông qua chuyển nhượng, mua lại, bán cổ phần, … trừ trường hợp pháp luật có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần.
So với các loại hình công ty khác, tính minh bạch về thông tin của công ty cổ phần cũng là một lợi thế để nhà đầu tư cảm thấy an tâm khi lựa chọn đầu tư vào công ty cổ phần. Công ty cổ phần, đặc biệt là công ty cổ phần đại chúng phải tuân thủ hệ thống công bố thông tin nghiêm ngặt theo quy định của pháp luật. Đối với nhà đầu tư (bao gồm cả cổ đông công ty), công ty cổ phần công bố thông tin minh bạch, chính xác, kịp thời theo quy định của pháp luật, có lợi cho nhà đầu tư trong việc quyết định đầu tư đúng đắn trên cơ sở điều kiện hoạt động và tài chính đã công bố của công ty.
Đối với nhà nước, nghĩa vụ công bố thông tin của công ty cổ phần là cơ sở để nhà nước đánh thuế đúng và đủ đối với doanh nghiệp. Ngoài ra, các cổ đông của công ty cổ phần ngoài nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước còn phải nộp thuế cho các cổ đông của công ty cổ phần và nộp các khoản thuế cho nhà nước theo quy định của pháp luật. / p>
2.3. Lợi ích của việc sở hữu vốn cổ phần đối với doanh nghiệp nhà nước
Về bản thân doanh nghiệp sau khi được cơ cấu lại thành công ty cổ phần, doanh nghiệp sẽ có những lợi thế của công ty cổ phần so với các loại hình doanh nghiệp và ngành nghề khác. Vốn chủ sở hữu sẽ đa dạng hóa chủ sở hữu của doanh nghiệp, đồng thời doanh nghiệp có thể thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nhiều khía cạnh khác nhau như nhà nước, nhân viên nội bộ, cổ đông bên ngoài của doanh nghiệp. Do đó, khả năng huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Ngoài ra, việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp cổ phần sẽ giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào doanh nghiệp. Có nghĩa là, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tự chủ, việc ra quyết định đầu tư, quyết định hoạt động và mở rộng sản xuất của doanh nghiệp sẽ rất nhanh chóng, phù hợp với yêu cầu về thời gian và tiến độ. , và không hoàn toàn phụ thuộc vào sự chấp thuận của nhà nước. Do đó, việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp cổ phần sẽ giúp doanh nghiệp nhà nước vốn chủ sở hữu khắc phục được hạn chế của Việt Nam về số lượng doanh nghiệp nhà nước quá nhiều, hoạt động trì trệ, công nghệ lạc hậu.
Đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần , sở hữu trên cơ sở vốn chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước là tạo điều kiện cho người lao động trong doanh nghiệp tham gia cổ phần, xác nhận quyền và tự kiểm soát . Công ty cổ phần có đặc điểm là không hạn chế số lượng nhà đầu tư và người lao động, có thể trở thành cổ đông của doanh nghiệp. Để khơi dậy tinh thần hăng hái của người lao động thì quyền lợi và trách nhiệm của người lao động sẽ gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có như vậy kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp mới hiệu quả hơn, người lao động cũng được hưởng lợi nhuận tương xứng với sức lao động của mình.
Đối với nền kinh tế , việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, đặc biệt là công ty cổ phần đại chúng sẽ thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán, từ đó thu hút vốn nhàn rỗi vào thị trường. Đầu tư xã hội và nước ngoài. Điều này sẽ giúp cho sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với khu vực và thế giới.
Trên đây là bài viết tại sao nên cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước? Nếu bạn còn thắc mắc hoặc muốn được tư vấn, hãy gọi điện đến đường dây nóng của chúng tôi. Hỗ trợ dịch vụ qua đường dây nóng 097 393 8866 hoặc 091 611 0508.
Tại sao phải sở hữu vốn cổ phần đối với các doanh nghiệp nhà nước? Luật và Quy định