Giá trị sản lượng của ngành nông nghiệp được tính theo phương pháp tổng doanh thu, tức là sự trùng lắp về sản phẩm giữa các ngành trồng trọt và chăn nuôi. Nó được tính như sau: nhân sản lượng của từng sản phẩm với đơn giá của từng sản phẩm, sau đó cộng tổng giá trị của các sản phẩm. Đối với sản phẩm phụ, chỉ tính những sản phẩm đã được thu hoạch và sử dụng. Chi phí WIP chỉ được tính cho sản phẩm chưa thu hoạch vào cuối kỳ trừ đi đầu kỳ.
Giá trị sản lượng nông nghiệp hàng năm được tính theo giá thực tế và giá so sánh.
Cây lâu năm là cây sinh trưởng và cho sản phẩm nhiều năm, bao gồm cây công nghiệp lâu năm (chè, cà phê, cao su …), cây ăn quả. (cam, chanh, nhãn …), cây thuốc lâu năm (quế, đậu phụ …).
Cây hàng năm là cây có thời gian sinh trưởng và tồn tại không quá một năm, bao gồm cây lương thực (lúa, ngô, kê, mì …), cây thương phẩm hàng năm (mía, cói, đay …), cây thuốc hàng năm, cây lương thực và cây họ đậu.
Năng suất lương thực đề cập đến tổng sản lượng được tính bằng cách đơn giản thêm (không chuyển đổi) lúa, ngô và một số cây ngũ cốc khác như lúa miến, kê, kiều mạch … (không bao gồm các loại cây lấy củ giàu tinh bột, chẳng hạn như như khoai lang và sắn). Thực tế ở nước tôi, sản lượng bột cao lương, kê, lúa mạch … rất ít nên trong niên giám thống kê hiện nay chỉ tiêu sản lượng ngũ cốc chỉ bao gồm sản lượng lúa và ngô.
Năng suất lúa (còn được gọi là năng suất lúa miến) là năng suất lúa cạn của tất cả các vụ sản xuất trong năm. Sản lượng lúa năm nào được tính trên cơ sở năm hiện hành, không bao gồm thiệt hại do các nguyên nhân khác nhau (chuột phá, rơi vãi, hư hỏng trên đường đi, hư hỏng trước khi bảo quản …) trong quá trình thu hoạch, vận chuyển và giống. sản xuất. …).
Sản lượng ngô là số lượng ngô hạt khô sạch được thu hoạch trong một năm.
Tổng số trâu, bò sữa bằng 1/10 số trâu, bò sữa hiện có tại thời điểm điều tra (bao gồm cả trâu sơ sinh và bò sữa 24 giờ trước khi điều tra) .
Tổng số lợn là 1/10 số lợn hiện có tại thời điểm điều tra, bao gồm lợn thịt, lợn nái và lợn đực giống (không bao gồm lợn sữa mẹ).
Tổng số gia cầm là 1/10 số gà, vịt, ngan, ngỗng.
Rừng tự nhiên là rừng không phải do con người trồng, bao gồm rừng sản xuất, rừng che chắn và rừng đặc dụng có một hoặc cả hai điều kiện sau: (1) Rừng trung bình trữ lượng từ 25m3 / ha trở lên (2) Rừng tán> 0,3 (tổng diện tích tán> 30% diện tích rừng).
Diện tích rừng trồng bao gồm diện tích trồng rừng, bao gồm diện tích đất lâm nghiệp và diện tích trồng rừng mới.
Giá trị sản lượng lâm nghiệp là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và hoạt động sản xuất từ lâm nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm), được tính theo công thức sau : Các nguyên tắc sau:
+ Giá trị sản lượng lâm nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị thành quả lao động hữu ích mà ngành lâm nghiệp tạo ra trong năm báo cáo, không bao gồm sản phẩm kém chất lượng, không đạt yêu cầu kỹ thuật. Mỹ thuật.
+ Được tính vào giá trị sản xuất, bao gồm giá trị của sản phẩm sơ cấp và giá trị của sản phẩm phụ.
+ Được tính vào giá trị đầu ra của giá trị sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất lâm nghiệp và cho phép trùng hợp với nhiều yếu tố trong quá trình trồng rừng như chi phí trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng.
Giá trị sản xuất theo giá thực tế và giá so sánh.
Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản là diện tích ao, hồ, đầm, phá, quây chống hố và các loài thủy sản khác như tôm, cá, v.v., không bao gồm các loại hồ thủy lợi, thủy điện kết hợp đất nuôi tôm, cá và thủy sản khác (loại đất này thuộc loại đất đặc biệt).
Giá trị sản lượng thủy sản là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả của hoạt động sản xuất và quản lý nghề cá trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.
Hoạt động sản xuất và kinh doanh thủy sản bao gồm nuôi trồng, đánh bắt cá, tôm, ba ba, ếch, lươn, ngọc trai, rong biển, thạch … và các sản phẩm thủy sản khác (không bao gồm các sản phẩm thủy sản của nông dân).
p>