I / Trích dẫn
Giao tiếp là một hiện tượng tâm lý – xã hội tồn tại trong các mối quan hệ giữa người với người và là một dạng hoạt động cụ thể của con người. Thông qua giao tiếp bằng lời nói và cử chỉ không lời, với sự trợ giúp của các phương tiện khác nhau, mọi người trao đổi thông tin, nhận thức và tác động lẫn nhau để đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu các yếu tố hình thức và một số đặc điểm nổi bật của quá trình giao tiếp. Hai hình thức giao tiếp cơ bản được nói đến nhiều nhất ở đây là giao tiếp bằng lời nói và giao tiếp không lời. Ngoài ra, hiện tượng truyền miệng hay tin đồn cũng được xem xét dưới góc độ hình thành luật. Cuối cùng, bốn hành vi giao tiếp của con người với tư cách là các dạng hành vi đóng lại lập luận. Các thí nghiệm về chủ đề giao tiếp đã nêu bật hai hình thức giao tiếp: giao tiếp bằng lời và giao tiếp không lời. Các thí nghiệm cũng nêu bật các yếu tố xây dựng lòng tin trong giao tiếp và tác động của giao tiếp đối với hành vi của con người.
Trong khi nhiều phương thức giao tiếp khác nhau đã xuất hiện đối với các hiện tượng trong tâm lý học, giao tiếp vẫn chứa đựng những yếu tố chính mà Lasswell đã vạch ra từ nửa đầu thế kỷ XX. Quá trình giao tiếp bao gồm 5 câu hỏi: 1. ai nói – người gửi, 2. nội dung thông điệp gì, 3 – cách thức – kênh giao tiếp, 4. cho – người nhận thông điệp, 5 – mục đích – đầu ra.
- Ai đã nói – người gửi (hoặc người gửi) . Chủ thể giao tiếp là người tham gia vào quá trình giao tiếp với các đặc điểm cá nhân như kiến thức và trình độ hiểu biết, các đặc điểm về thể chất, tâm lý và xã hội. Mức độ ảnh hưởng của một người giao tiếp đến hiệu quả của giao tiếp phụ thuộc vào cách anh ta nhìn nhận và đánh giá bản thân. Nếu người giao tiếp có hình ảnh tốt về bản thân, cởi mở và có thể kiểm soát cảm xúc và phản ứng của bản thân, đối tượng sẽ cảm thấy tự tin trong giao tiếp và do đó tích cực giải thích ảnh hưởng của người khác. Giao tiếp và có xu hướng giao tiếp thành công. Giao tiếp thành công củng cố hình ảnh bản thân tốt. Ngoài ra, các biểu hiện của hành vi phi ngôn ngữ cũng tham gia vào quá trình giao tiếp như cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt… thậm chí cả mùi nước hoa.
- cái gì – nội dung thông điệp (ý tưởng) . Thông điệp có thể dài hay ngắn, nhiều hay ít, cấu trúc và hình thức của thông điệp không chỉ phụ thuộc vào ý nghĩa, nội dung mà người gửi muốn truyền tải mà còn phụ thuộc vào các yếu tố trong quá trình giao tiếp như người nhận. Ba loại thông điệp cần được chú ý: thông điệp giúp tăng cường hiểu biết về điều gì đó; thông điệp giúp tăng khả năng và kỹ năng thực hiện một hành vi nhất định và thông điệp thuyết phục mọi người ủng hộ hoặc chống lại điều gì đó. Việc giải thích thông tin không chỉ để tìm ra ý nghĩa chung chung mà còn để hiểu ý định cá nhân (mặc dù rõ ràng là của người gửi). Người xưa thường nói “tiếng tâm tại ngoại”. Vì vậy, khi đang nói chuyện, chúng ta nên chú ý tìm hiểu ý của đối phương, không nên chỉ nghe lời. Sự hiểu lầm và xung đột có thể nảy sinh trong mối quan hệ giao tiếp khi người nhận giải mã sai hoặc thiếu thông điệp.
- Cách thức – Kênh giao tiếp . Nó là sự truyền tải thông điệp giữa các thư từ. Các kênh giao tiếp phổ biến nhất là các kênh sử dụng lời nói và chữ viết cũng như các phương tiện phi ngôn ngữ khác như cử chỉ, giao tiếp bằng mắt, nụ cười, đồ vật và sử dụng không gian và thời gian. Trên thực tế, để truyền đạt thông tin, suy nghĩ và tình cảm, con người thường sử dụng cả 5 kênh giao tiếp tương ứng với 5 giác quan: thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác và xúc giác. Vì vậy, tùy theo tính chất của cuộc giao tiếp mà người ta lựa chọn ngôn ngữ, trang phục phù hợp với đối tượng giao tiếp. Các phương tiện giao tiếp ngày càng đa dạng hơn. Cùng với ngôn ngữ, cử chỉ, văn bản, hình ảnh, cuộc gọi điện thoại, phim, hội nghị truyền hình, máy tính, v.v. xuất hiện từng cái một.
- Nhắm – để đặt tin nhắn nhận (người nhận). Giao tiếp hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào người nói, mà còn phụ thuộc vào người nghe. Đôi khi, thông tin mà đối tác giao tiếp nhận được rất khác với thông tin mà đối tượng truyền đạt. Sự khác biệt này phụ thuộc vào các đặc điểm cá nhân như trình độ học vấn, nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính, quan điểm sống, nhu cầu, động cơ cá nhân, v.v. Để giao tiếp thành công, người giao tiếp cần phải giao tiếp. Quan sát những người giao tiếp của bạn để nắm bắt phản ứng của họ và điều chỉnh cho phù hợp.
- Cho mục đích – đầu ra. Giao tiếp là một hoạt động, vì vậy nó luôn phục vụ một mục đích. Quá trình giao tiếp tạo ra sản phẩm được hình dung theo mục đích truyền thông. Mục đích của giao tiếp thường là để thoả mãn hoặc thoả mãn những nhu cầu nhất định của người giao tiếp: nhu cầu trao đổi thông tin, nhu cầu chia sẻ tình cảm, nhu cầu giải trí, nhu cầu giữ gìn bản thân trước. Những người khác… Khi người tham gia giao tiếp không có mục đích giao tiếp rõ ràng thì không thể đạt được hiệu quả giao tiếp.
Ngoài 5 yếu tố cơ bản trên, hiệu quả của giao tiếp còn phụ thuộc vào các đặc điểm sau:
+ Môi trường giao tiếp: là môi trường diễn ra giao tiếp bao gồm các khía cạnh vật lý như vị trí, quy mô không gian họp, số lượng người có mặt, khí hậu, ánh sáng, tiếng ồn, màu sắc của các vật xung quanh … có tác động đến người đang giao tiếp.
+ Quy tắc trong giao tiếp: Luôn có những quy tắc rõ ràng hoặc ngầm hiểu trong giao tiếp. Nó phụ thuộc vào văn hóa và lối sống của người giao tiếp. Khi giao tiếp, các cá nhân có xu hướng so sánh và đối chiếu suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của mình và của người giao tiếp với các quy tắc và tiêu chuẩn quy định nhằm đạt được một thế giới yên tâm. Các quy tắc giao tiếp có chức năng hiểu và tạo niềm tin cho người giao tiếp, giảm sự nhầm lẫn trong vấn đề giao tiếp và tránh xung đột. Các quy tắc này luôn thay đổi trong quá trình giao tiếp. Chủ thể giao tiếp không nắm vững các quy tắc giao tiếp sẽ ảnh hưởng không tốt đến kết quả giao tiếp.
+ Cảm xúc và sự truyền tải cảm xúc giữa những người giao tiếp: Cảm xúc của người giao tiếp ảnh hưởng đến thái độ, quan điểm, cách nhìn nhận vấn đề, hành vi và xu hướng phán xét, đánh giá vấn đề của họ. Sự hiểu lầm và xung đột có thể dễ dàng phát sinh khi người giao tiếp không thoải mái về mặt cảm xúc. Hơn nữa, một đặc điểm quan trọng trong tương tác xã hội không thể không kể đến đó là tính lan truyền (lây lan) của cảm xúc và tình cảm. Biểu hiện thân thiện trước hết được thể hiện trên nét mặt và phản ánh khả năng đồng cảm và ảnh hưởng lẫn nhau của mọi người. Việc truyền tải cảm xúc giúp cho quá trình giao tiếp diễn ra rất hiệu quả.
Một yếu tố khác không thể bỏ qua là phản hồi. Đối với cá nhân, cung cấp phản hồi trung thực tạo điều kiện giao tiếp hiệu quả. Thiếu phản hồi trong xung đột có thể dễ dẫn đến chia rẽ, bất hợp tác và thất bại trong giao tiếp.
Hai chức năng quan trọng nhất trong tương tác xã hội là giao tiếp và điều chỉnh hành vi. Chức năng giao tiếp bao gồm tất cả các quá trình mà con người và động vật truyền và nhận thông tin. Tuy nhiên, những người có ngôn ngữ – hệ thống tín hiệu thứ hai, thì quá trình giao tiếp được tạo điều kiện để phát huy tác dụng tối đa và do đó, họ có khả năng truyền tải bất kỳ thông tin và tín hiệu nào họ muốn. Với sự trợ giúp của chức năng điều chỉnh hành vi, các cá nhân tham gia giao tiếp có khả năng điều chỉnh không chỉ hành vi của mình mà còn cả hành vi của người khác. Chức năng này chỉ có ở người khi có liên quan đến các quá trình nhận thức, hành động và cảm xúc. Chức năng điều chỉnh hành vi còn phản ánh khả năng thích ứng lẫn nhau, tính mềm dẻo, linh hoạt của các phẩm chất tâm lý cá nhân trong giao tiếp. Ngoài ra, nó còn đóng vai trò tích cực trong quá trình giao tiếp của chủ thể.
Có nhiều hình thức giao tiếp trong xã hội, nhưng các nhà khoa học thường chia chúng thành hai loại: giao tiếp bằng lời nói và giao tiếp không lời. Trong giao tiếp, chúng ta khó phân biệt được đâu là lời nói được và đâu là lời nói chưa được nói ra. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra rằng 7% nội dung thông tin là do nghĩa của từ tạo ra, 38% do cách phát âm từ và con số khổng lồ là 55% do biểu hiện trên khuôn mặt.
Giao tiếp bằng lời nói là một hình thức giao tiếp độc đáo chỉ tồn tại ở con người, thông qua lời nói và chữ viết. Ở mỗi cá nhân, năng lực trí tuệ được thể hiện rõ nét ở cách diễn đạt câu, cách dùng câu, ý tứ trong giao tiếp. Nghiên cứu cho thấy trẻ mù chữ thường mơ hồ, nói tiếng địa phương, ít từ, lặp lại từ khi giải thích, diễn đạt không rõ nghĩa hoặc ý nghĩa, và kém khả năng giải thích các từ trừu tượng. Tuy nhiên, những đứa trẻ được giáo dục ở độ tuổi thích hợp có xu hướng có vốn từ vựng phong phú và mức độ biểu đạt thông tin biểu tượng cao hơn. Việc sử dụng ngôn ngữ nói và viết trong giao tiếp rất khác nhau, tùy thuộc vào kinh nghiệm, kiến thức và hiểu biết của mỗi người. Nghệ thuật thể hiện ngôn ngữ của một cá nhân, bối cảnh mà ngôn ngữ được sử dụng, định hướng của các hành động ngôn ngữ tới các mục tiêu khác nhau, và bản sắc ngôn ngữ được sử dụng đều ảnh hưởng rất lớn đến giao tiếp.
(còn tiếp)
th: t.giang – scdrc
Nguồn tham khảo: trần thị minh đức – thí nghiệm tâm lý xã hội – NXB 2008.