en.lenin – nhà lãnh đạo thiên tài của giai cấp vô sản Nga và thế giới (ảnh web)
(dcsvn) –
Lý thuyết kỹ thuật của Lenin và ứng dụng của nó ở nước Nga Xô Viết
Từ cuối năm 1917, sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, chính quyền Xô viết được thành lập và Lenin, lãnh tụ cao nhất của đất nước, là người đầu tiên nghĩ đến việc sử dụng nguyên liệu thô. Kinh tế tư bản chủ nghĩa với tư cách là một hình thái kinh tế đặc biệt thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, quan niệm của người dân về việc sử dụng công nghệ vào thời điểm đó còn chưa chín muồi và có tính chất chính trị mạnh mẽ để củng cố sự độc quyền của nhà nước đối với lưu thông hàng hóa, đặc biệt trong việc chống lại các hoạt động đầu cơ lúa mì của địa chủ, nông dân giàu có và tư bản chủ nghĩa. Thật không may, sự phát triển phức tạp của tình hình nước Nga Xô Viết trong những năm 1918-1920 đã buộc nhà nước Xô Viết phải thực hiện chính sách chủ nghĩa cộng sản thời chiến. i>, ngay lập tức quốc hữu hóa những tài sản và tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản độc quyền, bọn địa chủ lớn và các thế lực phản động và các nhà cách mạng khác. Những hành động này là kịp thời và đúng đắn đối với hoàn cảnh, nhưng cũng vì nó hạn chế khả năng sử dụng công nghệ, điều mà Lenin đã thấy trước.
Vào tháng 3 năm 1921, sau Nội chiến, tại Đại hội x Đảng Cộng sản (b) Nga đã đưa ra Chính sách kinh tế mới (nep), Lenin đã chỉ ra rằng dưới những điều kiện mới này Việc sử dụng hình thức chuyển đổi kinh tế của cntbnn là một phần rất quan trọng của chính sách này . Thời đại của chính sách cộng sản thời chiến đã kết thúc, và hiện nay với việc thực hiện Chính sách kinh tế mới, một trong những hình thức rất phù hợp để giúp Nga và Nga nhanh chóng vượt qua sự suy sụp kinh tế sau chiến tranh và ngăn chặn sự xuất hiện tự phát của hàng hóa lặt vặt. sản xuất – Hạt giống về Công nghệ phục hồi. Sở dĩ chủ nghĩa cộng sản dưới chế độ độc tài của giai cấp vô sản lại có ý nghĩa và tác dụng to lớn như vậy là vì theo định nghĩa của Lê-nin – nó là công nghệ liên quan đến nhà nước. Nước đó là nước của giai cấp vô sản, đội tiên phong của chúng ta. Thông qua sử dụng công nghệ, giai cấp vô sản có thể học hỏi, kế thừa và nâng cao có chọn lọc mọi tài sản vật chất – kỹ thuật, tinh hoa trí tuệ trong kinh nghiệm sản xuất và hoạt động của các nhà đầu tư, cũng như tri thức khoa học – công nghệ của giai cấp tư sản và trình độ khoa học của nền kinh tế. ban quản lý. chuyên gia. Nhà nước vô sản có thể sử dụng công nghệ như một hệ thống chính sách, công cụ và biện pháp để điều chỉnh mọi hoạt động của các xí nghiệp tư bản còn tồn tại trong thời kỳ quá độ, để sử dụng hoà bình vừa và chuyển hoá mọi thành phần kinh tế của tư bản chủ nghĩa và sản xuất nhỏ. . Theo quan điểm này, công nghệ cũng có thể được coi là một trong những phương thức, phương tiện và cách tiếp cận hữu hiệu để thúc đẩy xã hội hóa xã hội chủ nghĩa và tăng nhanh năng suất xã hội chủ nghĩa, là kết quả cơ bản của quá trình xã hội hóa. Nền sản xuất hàng hoá quá độ xã hội chủ nghĩa – giai đoạn trung gian của nền sản xuất hàng hoá xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
Chúng ta nên nhớ rằng bối cảnh lịch sử của nước Nga Xô Viết vào thời điểm đó vẫn còn rất phức tạp. Nhiều người cộng sản Nga thực sự, nhưng do không nhận thức được vấn đề này nên lo lắng rằng nếu họ sử dụng công nghệ và các hình thức kinh tế quá độ tư sản thì giai cấp tư sản Nga, đặc biệt là các nhà tư bản, sẽ có khả năng tái phát triển. Do đó, nguy cơ phục hồi cntb của Nga là cao. Những người cộng sản này thậm chí còn bối rối hơn khi họ thấy luận điểm của những người cộng sản cánh tả tuyên truyền rằng Nga sẽ trở lại kỷ nguyên của chủ nghĩa cộng sản, vốn chủ trương tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản, tức là không có quá trình chuyển đổi trung gian, do đó không sử dụng công nghệ, không có sử dụng quan hệ hàng hóa – tiền tệ, v.v … Do đó phải triệt để xóa bỏ giai cấp tư sản. Lê-nin đã phê phán lập luận phi khoa học này, cho rằng đó là một “căn bệnh cánh tả” của giai cấp tư sản nhỏ nhen nguỵ trang thành những người cộng sản. Ai đã chỉ ra rằng chúng ta không sợ CCTV “CCTV vẫn là một bước tiến lớn … bởi vì vượt qua sự hỗn loạn, kinh tế sụp đổ và lỏng lẻo là quan trọng nhất, bởi vì cho phép tình trạng vô chính phủ tư sản nhỏ tiếp tục là mối nguy hiểm lớn nhất, khủng khiếp nhất, nó sẽ giết chúng ta hoàn toàn (nếu chúng ta không đánh bại nó). Tất nhiên, trả nhiều tiền hơn cho xã hội dân sự sẽ không giết chúng ta, ngược lại, nó có thể đưa chúng ta đến con đường chắc chắn nhất của chủ nghĩa xã hội. (Đại cương Lenin, Báo chí Tiến bộ), Matxcova, 1978, trang 366-367).
Việc sử dụng cntbnn rõ ràng là một nhu cầu khách quan của Liên Xô vào thời điểm đó. Tuy nhiên, như Lenin đã chỉ ra, việc cho phép phát triển các hình thức kinh tế quá độ, bao gồm cả công nghiệp hóa và sử dụng rộng rãi quan hệ trao đổi hàng hóa – tiền tệ theo tinh thần của Chính sách kinh tế mới, không phải là đầu hàng giai cấp tư sản và phục hồi tự do chủ nghĩa tư bản. . quan hệ. Chế độ chuyên chính của giai cấp vô sản chỉ cho phép công nghiệp hóa trong phạm vi cần thiết để khôi phục kinh tế và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Việc sử dụng neps, bao gồm cả các biện pháp lập lại hòa bình cho các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và sản xuất nhỏ, là việc làm cần thiết và phù hợp với điều kiện lịch sử của nước Nga Xô Viết lúc bấy giờ. Nhưng về nguyên tắc cũng phải xác định rằng đây không phải là quá trình xóa bỏ đấu tranh giai cấp và đấu tranh chung sống hòa bình với giai cấp tư sản và các lực lượng đối lập khác của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Yêu cầu đặt ra là nhà nước Xô Viết phải biết sử dụng các hình thức và phương pháp điều tiết, kiểm kê, kiểm soát và không để cho công nghệ phát triển tùy tiện “không muốn thay đổi bản chất. Nhà nước vô sản chỉ có thể cho phép tự do buôn bán và thương mại tự do. ”Ở một mức độ nhất định, chỉ trong điều kiện thương mại tư nhân và tư bản tư nhân phải chịu sự giám sát của nhà nước (giám sát, kiểm tra, quy định về hình thức, đặt hàng, v.v.).
Trong thực tế những năm 1920 ở Nga, những tư tưởng nêu trên của Lê-nin về Cách mạng công nghiệp do chính Người chỉ đạo và vận dụng trực tiếp trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, có thể áp dụng cho mọi thành phần kinh tế tư bản và sản xuất. Nhiều hình thức công nghệ khác nhau đã được sử dụng, như nhượng bộ cho các nhà tư bản nước ngoài, các doanh nghiệp, các thể chế kinh tế, khai thác tài nguyên thiên nhiên của Nga, cho phép các nhà tư bản trong nước tham gia vào các xí nghiệp quốc doanh, thành lập các liên doanh (ngoại thương hỗn hợp) giữa các nhà nước vô sản và các nhà tư bản. , tổ chức các hợp tác xã tư sản, mạng lưới đại lý thương mại, trong đó các nhà tư bản hoặc tiểu thương được sử dụng, v.v …
Nước Nga đã sử dụng hình thức kinh tế chuyển đổi ntbnn vào những năm 1920, mặc dù rất đa dạng và linh hoạt đã nêu ở trên, nhưng thực tiễn cho thấy nó vẫn chưa mang lại kết quả như mong muốn. Giống như Lê-nin và nhà nước Xô Viết. Nếu chỉ xét về hiệu quả kinh tế định lượng, thì lợi ích do công nghệ mang lại chỉ đóng góp không đáng kể cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, một trong số đó là việc các nhà tư bản không muốn hợp tác và không chịu đầu tư vốn vào nền kinh tế Liên Xô. Điều này cũng dễ hiểu, vì lúc bấy giờ, trong mối quan hệ quyền lực giữa nước Nga Xô Viết và quân nổi dậy thế giới, bọn tư bản quốc tế cấu kết với giai cấp tư sản phản động trong nước nhằm bao vây, đàn áp phong trào, phá hoại kinh tế. Giết nhà nước Xô Viết non trẻ đầu tiên trên thế giới. Trong bối cảnh đó, cùng với khả năng còn rất hạn chế của Nhà nước Xô Viết về kinh nghiệm và phương pháp tổ chức, quản lý kinh tế, điều tiết hoạt động của các xí nghiệp quốc doanh, khả năng ổn định tài chính, cung ứng và nguyên liệu cho sản xuất. , việc lưu thông hàng hoá mang tính thương mại Vẫn còn rất khó khăn … Đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc Lê-nin có thể vận dụng mọi lý thuyết kỹ thuật, nhưng còn rất hạn chế.
Thực tiễn áp dụng lý luận kỹ thuật của Lênin ở Việt Nam
Trong 89 năm kể từ khi Lenin khởi xướng Chính sách Kinh tế Mới (nep), trong đó có việc sử dụng hình thức kinh tế chuyển đổi của nhà nước, đã có nhiều biến động chính trị phức tạp trong nước. Nga và toàn thế giới. Tổng hợp tình hình thực tế xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng ta thấy rằng trong những năm trước 1975, một phần do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, cần phải tập trung sức người, sức của cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp, nhất là chiến tranh chống Mỹ. Mặt khác, chủ yếu Do nước ta hiểu rõ nhiệm vụ xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Hình thức kinh tế liên doanh có vốn nước ngoài – cntbnn đang phổ biến ở Việt Nam (Ảnh: Liên doanh với Singapore tại Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore, tỉnh Bình Dương) – ảnh trần anh.
Chỉ những năm sau Đổi mới, từ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng ta (tháng 12 năm 1986) đến nay, nền kinh tế nước ta mới thực sự khởi sắc và kết quả phát triển rất đáng ghi nhận. Có nhiều lý do cho sự phát triển này, nhưng một điều quan trọng chắc chắn là chúng ta hiểu rõ hơn về các nhiệm vụ, biện pháp và các bước thích hợp cần phải thực hiện. Kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều này có nghĩa là thừa nhận sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo tư tưởng chỉ đạo của Lê-nin về “phát triển năng lượng mới” và công nghệ về chính sách và biện pháp kinh tế, nhưng trước hết là thừa nhận sự tồn tại của mục tiêu kinh tế nhiều thành phần của chủ nghĩa xã hội, hoặc, trong Lời của Lê-nin, cũng là “sản xuất manh mún, nhỏ lẻ trong lĩnh vực công nghiệp…”. Từ Đại hội VI đến Đại hội VII, VIII, IX, X (tháng 4/2006), sau 20 năm đổi mới, đến nay nhìn lại, do thời đại ngày nay và việc Lê-nin thực hiện “Chính sách năng lượng mới” là thời điểm khác nhau và do đó cũng khác nhau. “ở nước Nga những năm 1920, nhưng nếu xem xét kỹ hơn tư tưởng chỉ đạo trước đây của Lê-nin, chúng ta sẽ thấy nhiều điểm về cơ bản vẫn giống nhau. Tất cả đều là sử dụng” nep “, sử dụng hình thức kinh tế quá độ. Điều đó được biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau:
– Chúng ta phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là tôn trọng quy luật giá trị và các quy luật vận động khách quan khác của quan hệ sản xuất và trao đổi tiền tệ hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, kể cả kinh tế đối nội và đối ngoại, nhưng phải tuân thủ sự tuân thủ của đảng và nhà nước ta Đề ra phương hướng phát triển bền vững xã hội chủ nghĩa.
– Nhận thức được sự tồn tại và phát triển khách quan của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu. Tại hội nghị, chúng tôi chỉ công nhận công nghệ là nền kinh tế chuyển đổi. Trước Đại hội lần thứ bảy, ngành công nghiệp được coi là một phần của nền kinh tế. Không chỉ vậy, ngay cả tư bản tư nhân cũng được Quốc hội công nhận là một thành phần của nền kinh tế. Xem xét các loại thành phần kinh tế tư bản nhà nước tồn tại ở nước ta hiện nay, có thể nêu ra nhiều hình thức khác nhau thậm chí có từ thời Lê-nin, như nhượng địa trước đây, kinh tế tư bản nhà nước hiện nay. 100% vốn nước ngoài, đầu tư liên doanh giữa nhà nước và vốn nước ngoài hoặc vốn nhà nước và vốn trong nước, gọi là liên doanh trong thời đại Lê-nin, vốn nhà nước và tư nhân thông qua các loại hình công ty tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn … Tuy nhiên, theo mười bên ta Vẫn có sự khác biệt trong cách phân chia. Vốn nhà nước vẫn được thừa nhận là một bộ phận cấu thành nền kinh tế, nhưng một điểm mới khác với thời kỳ trước Lê-nin là nó loại trừ tất cả các loại hình kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế đầu tư nước ngoài đã được Đảng ta xếp vào thành phần kinh tế riêng. Vì vậy, ở nước ta hiện nay, theo quyết định của Đại hội X, có 5 thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu nông, tư bản tư nhân, kinh tế tư nhân), kinh tế nhà nước tư bản chủ nghĩa và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả năm thành phần của nền kinh tế đều có thể phát triển tự do và bình đẳng trước pháp luật.
– Đổi mới căn bản cơ chế quản lý kinh tế, phát triển theo hướng xóa bỏ tập trung, bao cấp, thực hiện hạch toán kinh tế, mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế, chú trọng lợi ích cá nhân, khuyến khích sản xuất phát triển tự do, tự do. thương mại, luật tự do và luật Làm giàu …
Sự khác biệt giữa đất nước tôi và nước Nga Xô viết trong thời đại Lênin trong việc thực hiện các điểm nút và ứng dụng lý thuyết công nghệ sau khi chuyển đổi những năm gần đây là ở thời đại Lênin, chỉ có nước Nga Xô viết. Là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất bị cách mạng thế giới bao vây và phản đối nên chưa thể mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và quốc tế như nước ta hiện nay. Điều này khiến người ta dễ hiểu tại sao vào thời điểm đó, mặc dù nhấn mạnh địa vị và vai trò của kinh tế tư bản nhà nước và kể cả kinh tế tư bản tư nhân, nhưng Lênin luôn tuân thủ nguyên tắc nhà nước Xô Viết độc quyền ngoại thương và ngăn cản khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt Các nhà tư bản chưa bao giờ làm chủ được chiến trường này. Điều này không xảy ra ở Việt Nam hay ngay cả một số nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Lào, Cu Ba, … hiện nay, nghĩa là hoạt động ngoại thương vẫn mở cửa cho mọi thành phần kinh tế, kể cả kinh tế tư nhân, tư bản tư nhân và vốn nhà nước. , miễn là tuân thủ nghiêm ngặt luật pháp quốc gia và thông lệ quốc tế.
Tóm lại, các sắc thái áp dụng cho các hình thức kinh tế chuyển đổi công nghệ gần đây ở nước ta, vì các đặc điểm của thời đại ngày nay khác với các đặc điểm của nước Nga Xô viết trong những năm 1920. Những đổi mới qua các năm có khác nhau, nhưng xét về bản chất khoa học của vấn đề, có thể khẳng định hệ thống lý luận chung của Lê-nin và việc vận dụng các hình thái kinh tế, nhất là kinh tế học quá độ về công nghệ về cơ bản không thay đổi ý nghĩa. vẫn còn rõ ràng. Vấn đề quan trọng là chúng ta cần hiểu đúng “cntbnn” đầu tiên trong toàn bộ hệ thống di sản lý luận của Lênin về “Chính sách kinh tế mới”, “Xây dựng xã hội dân sự”, từ dưới sự chỉ đạo của Đại hội XI, kết hợp với thực tiễn nhu cầu phát triển của đất nước ta trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và thời thế tiếp tục tiến lên trong tương lai, ứng dụng sẽ được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa để năng động và sáng tạo. Toàn đảng và nhân dân cả nước trực tiếp thảo luận, thống nhất quan điểm, cách hiểu đối với dự thảo văn kiện trình đại hội đảng bộ. / i>