Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 02/9/1969)
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước và lớn lên ở nơi có truyền thống anh hùng đánh giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước bị ách đô hộ của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã chứng kiến nỗi thống khổ của đồng bào và cuộc đấu tranh chống thực dân thuở thiếu thời, ông sớm có ý chí đánh đuổi thực dân, đấu tranh giành độc lập. đất nước, để mang lại tự do và hạnh phúc cho đồng bào.
Với ý chí và quyết tâm cao, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc vào tháng 6 năm 1911, sang phương Tây tìm đường giải phóng đất nước.
Ngày 3 tháng 6 năm 1911, nguyễn tất thanh nhận thẻ nhân viên để lên con tàu amiran latustervin mang tên van ba. Hai ngày sau, ngày 5 tháng 6 năm 1911, tàu rời cảng Long đi Pháp.
Từ năm 1912 đến năm 1917, Hồ Chí Minh nhân danh Nguyễn Tá Thanh đã đi nhiều nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ và châu Phi để sống chan hòa với nhân dân lao động. Qua thực tiễn, Hồ Chí Minh đồng cảm sâu sắc với những kiếp người khốn khó và khát vọng thiêng liêng của nhân dân lao động và nhân dân các nước thuộc địa. Hồ Chí Minh sớm nhận thức rằng, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam là một bộ phận của cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, đã tích cực đoàn kết nhân dân các dân tộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh trở về Pháp và tích cực tham gia phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.
Năm 1919, nhân danh Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp ra bản tuyên ngôn tự do cho dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam tại Hội nghị Versailles. nhân dân các nước thuộc địa.
Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và tham luận của Lê-nin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp và bỏ phiếu bầu đảng gia nhập Quốc tế thứ ba (Comintern) , trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác hơn là cách mạng vô sản”.
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà yêu nước thuộc địa của Pháp tham gia thành lập Hội Liên hiệp nhân dân thuộc địa. Tháng 4-1922, để đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Hội đã xuất bản tờ báo “le paria”. Cuốn sách “Những bản án về chế độ thực dân Pháp”, xuất bản tại Paris năm 1925, có một số bài viết của Nguyễn Ái Quốc. Đây là công trình nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa thực dân giúp thức tỉnh và cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đấu tranh. để tự giải phóng.
Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô nhập cư từ Pháp sang Liên Xô để làm việc tại Comintern. Tháng 10 năm 1923, tại hội nghị quốc tế nông dân lần thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc được bầu vào Hội đồng quốc tế nông dân và là đại biểu duy nhất của thuộc địa được cử vào đoàn chủ tịch của hội đồng. Đại hội Quốc tế Thanh niên và Đại hội Quốc tế Công hội Đỏ. Tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc kiên quyết bảo vệ và phát triển Lê-nin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, hướng sự quan tâm của cộng đồng quốc tế cộng sản vào phong trào giải phóng dân tộc.
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Aiguo đến Quảng Châu (Trung Quốc) với tư cách là Ủy viên Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản và Ủy viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Quảng Châu, nguyễn ái quốc làm việc trong nhóm cố vấn borodin của chính phủ Liên Xô bên cạnh chính phủ tấn công.
Năm 1925, Nguyễn Aiguo thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, trực tiếp tổ chức các lớp đào tạo cán bộ cách mạng và xuất bản tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam “Thanh niên”, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam, chuẩn bị cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập. Bài giảng của Nguyễn Aiguo tại lớp tập huấn đã được sưu tầm và in thành cuốn sách Đường lối, một tài liệu lý luận quan trọng đặt nền móng tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam.
Tháng 5 năm 1927, Nguyễn Aiguo rời Quảng Châu đi Mátxcơva (Liên Xô), Berlin (Đức), Bruxelles (Bỉ) để tham dự cuộc họp mở rộng của Hội nghị Liên minh chống chiến tranh. Sau đó đến Ý, và từ đây đến châu Á.
Từ tháng 7 năm 1928 đến tháng 11 năm 1929, Nguyễn Aiguo tham gia Phong trào Việt kiều yêu nước ở Xiêm (Thái Lan), tiếp tục chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vào tháng 2 năm 1930, Ruan Aiguo chủ trì cuộc họp thành lập đảng ở Cửu Long, Hồng Kông, Trung Quốc. Đại hội đã thông qua Đề cương, Sách lược và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Tháng 6 năm 1931, Nguyễn Aiguo bị chính phủ Anh bắt tại Hồng Kông. Đầu năm 1933, Nguyễn Aiguo được trả tự do.
Từ năm 1934 đến năm 1938, Nguyễn Ái Quốc học tại Viện Nghiên cứu các vấn đề thuộc địa và dân tộc ở Mátxcơva (Liên Xô). Bám sát con đường đã xác lập của cách mạng Việt Nam và tiếp tục giám sát, chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước.
Tháng 10 năm 1938, ông rời Liên Xô về Trung Quốc, liên lạc với tổ chức đảng để chuẩn bị trở về Trung Quốc.
Ngày 28 tháng 1 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc trở về Trung Quốc sau hơn 30 năm rời quê hương.
Tháng 5 năm 1941, Nguyễn Aiguo triệu tập Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc để quyết định con đường cứu nước trong thời kỳ mới và thành lập Việt Nam độc lập đồng minh. Tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng 8 năm 1942, dưới bút danh Hồ Chí Minh, ông đại diện cho Mặt trận Việt Nam và Chi hội Việt Nam của Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược Trung Quốc, tìm kiếm một liên minh quốc tế, phối hợp hành động và tiến hành phong trào chống phát xít ở Thái Bình Dương. rạp hát. Ông bị chính quyền địa phương Tưởng Giới Thạch giam giữ tại nhà tù Quảng Tây. Trong một năm mười bốn ngày ở tù, ông đã viết 133 bài thơ “Nhật ký trong tù” bằng chữ Hán. Tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh được trả tự do.
Tháng 9 năm 1944, Hồ Chí Minh trở lại vùng cao. Tháng 12 năm 1944, Hồ Chí Minh ra lệnh thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh rời trường trung học và trở lại phong trào mới (tuyên ngôn). Tại đây, theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Đại hội Đảng toàn quốc và Đại hội đại biểu toàn quốc đã triệu tập để quyết định tổng khởi nghĩa. Quốc dân Đại hội bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ra đời chính phủ lâm thời do nhân dân lãnh đạo. Chủ tịch nước kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao; tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để bầu ra Quốc hội và thông qua bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam.
Ngày 1 tháng 1 năm 1946, Chính phủ liên hiệp lâm thời được thành lập, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Ngoại giao.
Tháng 1 năm 1946, Quốc hội khóa I bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 3 tháng 2 năm 1946, Liên minh Kháng chiến được thành lập do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Ngày 3 tháng 11 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội cử ra nhiệm vụ thành lập Chính phủ mới do các Tổng thống, Thủ tướng cũ (từ tháng 11 năm 1946 đến tháng 9 năm 1955) và Bộ Ngoại giao lãnh đạo. Bộ ngoại giao. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (11/1946-1947).
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng sẽ lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân và nhân dân Việt Nam đập tan âm mưu xâm lược của đế quốc, giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng.
Ngày 19/12/1946, Người kêu gọi nhân dân cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng Tháng Tám.
Tại Đại hội lần thứ hai của Đảng (1951), đồng chí được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi to lớn. chiến tranh chống thực dân Pháp và Chiến thắng Biên Phủ vĩ đại kết thúc (7/5/1954).
Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng (năm 1955), Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược đối với cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, xã hội miền Bắc đang ra sức giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Tháng 10 năm 1956, tại hội nghị trung ương mở rộng lần thứ 10 (khóa II), chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm chủ tịch đảng kiêm tổng bí thư.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đại hội Đảng lần thứ III (1960) nhất trí bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân Việt Nam.
Quốc hội bầu cử lần thứ hai và thứ ba bầu Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Năm 1964, đế quốc Mỹ mở cuộc không kích phá hoại miền Bắc Việt Nam. Người động viên toàn thể nhân dân Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ. Người khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5, 10, 20 năm hoặc hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, nhà máy có thể bị tàn phá, nhưng nhân dân Việt Nam kiên cường không sợ hãi! Không có gì quý hơn độc lập, tự do ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn! ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời tại Hà Nội ngày 2 tháng 9 năm 1969.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã để lại bản Di chúc lịch sử cho dân tộc Việt Nam, căn dặn Đảng và nhân dân Việt Nam phải ra sức xây dựng đất nước sau chiến tranh. Người viết: “Tâm nguyện cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân cả nước đoàn kết đấu tranh xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, đóng góp quý báu cho sự nghiệp cách mạng thế giới. “
Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể nhân dân Việt Nam đoàn kết đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ, buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri ngày 27 Tết. Ngày 1 tháng 1 năm 1973, cuộc chiến tranh xâm lược kết thúc và toàn bộ quân đội Hoa Kỳ và quân chư hầu được rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Mùa xuân năm 1975, với Trận địa Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện tâm nguyện thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của đất nước Việt Nam, chỉ ra con đường đúng đắn để cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập Đảng Mác – Lê-nin Việt Nam, Người sáng lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Người sáng lập Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, Người sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, người góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Đồng chí là tấm gương sáng về tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ lỗi lạc, một nhà hoạt động xuất sắc của cách mạng Việt Nam. Phong trào Cộng sản Quốc tế và Phong trào Giải phóng Dân tộc
Kỳ họp thứ 24 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) từ ngày 20 tháng 10 đến ngày 20 tháng 11 năm 1987 đã thông qua 24c / Nghị quyết 18.6.5 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời để tưởng nhớ công lao cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh như “anh hùng kiệt xuất của nền văn hóa giải phóng dân tộc Việt Nam”. Các quốc gia trên thế giới chung sức vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ngày nay, trong sự nghiệp trẻ hóa đất nước và hội nhập với thế giới, Tư tưởng Hồ Chí Minh là của cải tinh thần to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam, sẽ luôn soi đường xây dựng dân tộc Việt Nam. . Bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. /.