Ngoài các cách phân loại chi phí mà chúng ta đã tìm hiểu trong các bài viết trước, trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá một số cách phân loại khác:
1. Chi phí trực tiếp và gián tiếp:
* Chi phí Trực tiếp:
Chi phí trực tiếp là những chi phí riêng lẻ liên quan trực tiếp đến từng đối tượng chi phí (từng sản phẩm, công việc, đơn hàng …). Các chi phí này có thể được tính trực tiếp vào các đối tượng chi phí khác nhau, chẳng hạn như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp …
Loại chi phí này thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí ở một số doanh nghiệp, là nguyên nhân xác định nguyên nhân dẫn đến biến động chi phí. Do đó, nó cũng làm giảm những sai lệch của thông tin chi phí trong mọi bộ phận, mọi quy trình sản xuất kinh doanh.
* Chi phí gián tiếp:
Chi phí gián tiếp là chi phí chung liên quan đến nhiều đối tượng chi phí khác nhau, bao gồm chi phí vật liệu bổ sung, chi phí công cộng, chi phí quảng cáo … do các yếu tố có liên quan. Đối với nhiều đối tượng chi phí khác nhau, các nguyên nhân phát sinh chi phí gián tiếp có xu hướng tập trung, sau đó lựa chọn tiêu thức thích hợp để phân bổ chi phí gián tiếp cho từng đối tượng chi phí. Tuy nhiên, mỗi đối tượng chi phí thường chỉ đáp ứng một tiêu thức phân bổ nhất định. Mặt khác, mỗi loại chi phí có thể chỉ liên quan đến một đối tượng chi phí khác. Do đó, việc tính toán và phân bổ chi phí chung dựa trên các tiêu chuẩn giống nhau, hoặc dẫn đến sai lệch chi phí cho từng loại sản phẩm, từng bộ phận, từng quy trình sản xuất kinh doanh và có thể khiến người quản lý phải đưa ra những quyết định khác nhau.
Những cách phân loại chi phí này có ý nghĩa kỹ thuật bằng cách đưa chi phí vào đối tượng tổng hợp chi phí sản xuất. Đặt ra các yêu cầu đối với việc lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí (có thể sử dụng đồng thời nhiều tiêu thức phân bổ cho các loại chi phí khác nhau theo từng đối tượng chi phí) để đảm bảo chính xác giá thành, lợi nhuận trên từng loại hoạt động, thông tin trên từng loại sản phẩm, dịch vụ.
Mặt khác, việc phân loại chi phí này cũng giúp đưa ra quyết định trong các tình huống khác nhau. Đối với các nhà quản lý, chi phí trực tiếp thường có thể tránh được, tức là chúng bị phát sinh và mất đi khi các hoạt động hoặc sản phẩm cụ thể được tạo ra và bị mất đi.
Ví dụ, nếu ngành sản phẩm a có thể giảm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp … thì ngược lại, chi phí gián tiếp như chi phí sản xuất thường không thể tránh khỏi vì chúng được phát triển để phục vụ ít nhất 2 hoạt động hoặc 2 sản phẩm … … hoặc nhiều hơn, vì vậy nếu chỉ một hoặc một vài hoạt động hoặc sửa chữa mà chúng phục vụ bị đình chỉ, chúng vẫn tồn tại.
Tuy nhiên, các khái niệm về chi phí trực tiếp và gián tiếp cũng mang tính tương đối, vì chúng cũng khác nhau tùy thuộc vào đối tượng thu chi phí. Ví dụ, nếu tập hợp chi phí sản xuất cho từng sản phẩm, thì tiền lương của người quản lý bộ phận là chi phí gián tiếp. Nhưng nếu tính chi phí sản xuất so với nhà máy, thì tiền lương của trưởng bộ phận là chi phí trực tiếp. Tương tự, chi phí phát sinh tại văn phòng công ty là chi phí gián tiếp khi tổng hợp chi phí cho nhà máy và chi phí trực tiếp nếu tổng hợp chi phí cho toàn bộ công ty.
2. Chi phí có thể kiểm soát và không kiểm soát được
Chi phí có thể kiểm soát được có nghĩa là ở một cấp quản lý nhất định, người quản lý có thể phán đoán chính xác mức chi phí mà nó sẽ tạo ra trong kỳ, và người quản lý cũng có quyền quyết định chi phí mà nó sẽ tạo ra.
Ví dụ, chi phí hội họp và chi phí tiếp tân là những chi phí có thể kiểm soát được đối với người phụ trách bộ phận hành chính.
Ngược lại, chi phí không kiểm soát được là những chi phí mà người quản lý không thể dự đoán chính xác rằng chúng sẽ phải chịu trong thời kỳ đó hoặc không có thẩm quyền xác định loại chi phí. phí này.
Ví dụ: chi phí mua nhà máy là chi phí có thể kiểm soát được đối với các nhà quản lý cấp cao và chi phí không thể kiểm soát được đối với các nhà quản lý cấp thấp hơn
Nói chung, cấp quản lý càng cao thì phạm vi kiểm soát chi phí càng rộng. Cấp quản lý càng thấp thì phạm vi kiểm soát chi phí càng hẹp và số lượng các khoản mục chi phí có thể xác định được là rất ít.
Nhận thức về chi phí có thể kiểm soát và không kiểm soát được phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản:
- Đặc điểm của chi phí trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Phân cấp quản lý xung quanh cơ cấu tổ chức sản xuất và hoạt động của doanh nghiệp.
Xác định chi phí nào là chi phí có thể kiểm soát và chi phí không thể kiểm soát là một chủ đề quan trọng đối với các nhà quản lý nhằm giúp các nhà quản lý hoạch định ngân sách chi phí chính xác và tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, tính thụ động vốn và trách nhiệm quản lý. Với đặc điểm nêu trên của chi phí có thể kiểm soát và không kiểm soát được, để nâng cao khả năng kiểm soát của chi phí, nhà quản lý cần có một hệ thống phân cấp quản lý chi tiết và rõ ràng đối với chi phí gián tiếp, phí dịch vụ, chi phí sản xuất và hoạt động của công ty, v.v.
3. Phương sai chi phí:
Chi phí phương sai là những chi phí khác nhau về loại và mức chi phí giữa kế hoạch sản xuất và kế hoạch kinh doanh.
Các chi phí khác nhau được ghi nhận là các khoản mục chi phí hiện có xuất hiện trong sáng kiến kinh doanh này, nhưng chỉ một phần hoặc không xuất hiện trong sáng kiến sản xuất kinh doanh khác. Đây là một khái niệm rộng về chi phí được sử dụng để so sánh chi phí khi lựa chọn các phương án kinh doanh, có thể nhận thấy một số khác biệt về chi phí giữa các phương án. Phương sai chi phí có thể là mức tăng hoặc giảm giá của một chi phí và tổng chi phí. Chi phí phương sai có thể là chi phí biến đổi hoặc chi phí cố định.
Ví dụ: Tài liệu về 2 phương án x và y sau: (đơn vị: triệu đồng)
Phương án x so với y: Doanh thu tăng thêm 300 triệu đồng
Chi phí bổ sung: 230 triệu đồng
Lợi nhuận thêm: 70 triệu đồng
Phương sai chi phí là khái niệm nhận biết và so sánh chi phí khi lựa chọn các phương án kinh doanh. Nó có thể giúp quản trị viên thấy được sự khác biệt về chi phí và lợi nhuận trong các lựa chọn tốt hơn.
4. Chi phí nắng:
Chi phí chênh lệch là chi phí thường xuyên xuất hiện trong tất cả các phương án sản xuất kinh doanh. Đây là một chi phí mà ban lãnh đạo phải chấp nhận mà không có sự lựa chọn. Nói cách khác, chi phí chính là chi phí mà doanh nghiệp phải chịu và sẽ gánh chịu bất kể quá trình hành động mà doanh nghiệp lựa chọn.
Ví dụ, phí quảng cáo dài hạn, tiền thuê nhà xưởng … đều là chi phí chìm. Phí này là phí hàng năm mà các nhà quản trị phải chịu, và một khi đã ký hợp đồng thì dù thực hiện kế hoạch kinh doanh nào thì phí này cũng sẽ được trả trong vài năm.
Do đó, chi phí chìm không liên quan đến các quyết định và không phải là kinh doanh chênh lệch giá. Chi phí dự phòng là một khái niệm được sử dụng khi lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh vì nó giúp giảm thiểu thông tin, mức độ phức tạp của việc lựa chọn các phương án mà vẫn đưa ra các quyết định phù hợp. ,Có hiệu quả.
5. Chi phí cơ hội
Chi phí cơ hội có thể được định nghĩa là lợi nhuận tiềm năng bị mất hoặc bị hy sinh để chọn một hành động hơn một hành động khác. Một hành động khác ở đây là giải pháp thay thế tốt nhất hiện có so với hành động đã chọn. Trên thực tế, thường có nhiều phương án kinh doanh để lựa chọn và với mỗi phương án kinh doanh để lựa chọn, mỗi phương án đều có khả năng thu lợi nhuận cao nhất từ các phương án chi phí. Cơ hội của tùy chọn được chọn.
Nói chung, tất cả các chi phí phát sinh đều được ghi trong sổ kế toán, nhưng chi phí cơ hội không xuất hiện trong các tài liệu kế toán tài chính vì không có văn bản pháp lý hợp lệ. Do đó, chi phí cơ hội là một khái niệm bổ sung nhận ra nhiều hơn lợi ích kinh tế tiềm năng trong hoạt động kinh doanh.
Ví dụ: Một công ty có vốn 1 tỷ rupiah. Nếu một doanh nghiệp đầu tư vào một lĩnh vực kinh doanh mới, tỷ suất lợi nhuận trung bình hàng năm là 20%. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng với lãi suất tiền gửi 1,5% / tháng thì sẽ nhận được lãi suất hàng năm là 18% / năm. Mức lợi nhuận này phải được tính đến khi quyết định sử dụng hiệu quả nhất các quỹ của họ.
Bài tiếp theo: Phân loại chi phí trong báo cáo thu nhập.