Đại đức, Thượng tọa và Hòa thượng có nghĩa là gì

đại lão hòa thượng là gì

Theo nghĩa chung, Hòa thượng , Guru , Hòa thượng là tất cả các nhà sư, tu sĩ Phật giáo, còn được gọi là Tỳ-kheo-ni), Theo với tên gọi chung có trước thời Đức Phật, họ là sramana – samana, những nhà sư rời bỏ gia đình và sống trong cảnh nghèo khó và ẩn dật. …

Thượng tọa bộ (bhadanta): người có đức hạnh cao cả, người cao quý, thường được dùng để chỉ một vị Phật, một vị cao tăng, một đạo sư hay một nhà sư. Tục Cao Sảng năm 688 đời Đường. Tăng quá lớn, nên cử 10 người để hộ trì các giới luật, gọi là 10 Vị tôn giả.

thera (sthavira – thera): trưởng lão, già và thấp, cao trong tăng đoàn, thường là đạo sư của Pháp.

Tỳ kheo (upadhyaya – upajjhaya): còn được gọi là thân thầy, sinh lực (tạo ra sức mạnh tinh thần cho đệ tử), thầy y (hoặc thầy, cô giáo cho các tu sĩ trẻ để có được sự hướng dẫn thêm, ngoài guru) . Đây là vị trưởng lão vĩ đại trí tuệ và đức độ vĩ đại.

Empty

Hoà thượng Thích Gia Quang, PCT Hội đồng Trị sự, Trưởng Ban Thông tin truyền thông Trung ương Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Phật học – Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ảnh: Phatgiao.org.vn

Nên nhớ rằng ba chữ thượng tọa, hòa thượng, sư tôn ở trên là kính ngữ, được người khác nhắc đến để bày tỏ sự kính trọng đối với những bậc tu hành uyên bác chứ không phải những lời tự xưng. Trong trường hợp này, còn có sự tôn trọng đối với lời nói của ông, đức, tôn kính, tôn kính … Vì vậy, không ai tuyên bố như vậy.

Về sau, do lòng kính trọng mà Phật tử dành cho Hòa thượng trong suốt cuộc đời của họ, Hòa thượng, Thượng tọa, Tăng đoàn … dùng để chỉ sự khác biệt về hạ giới (tức là số năm tu hành của vị hòa thượng), chức vụ hoặc cấp bậc trước đây. Pháp danh của vị thần.

Ba từ hòa thượng, hòa thượng, hòa thượng xuất phát từ sự kính trọng của các nhà sư dành cho các nhà sư.

Có lẽ sự phân biệt này bắt nguồn từ Tỳ kheo ni Mutta, khi kinh Phật chia các tu sĩ Phật giáo thành bốn tên gọi dựa trên số năm tu tập: (1) hạng thấp – từ 0 đến 9 tuổi, (2) hạng trung – từ 10 đến 19 tuổi. già, (3) Người cao tuổi – 20 đến 49 tuổi, (4) Cựu chiến binh – 50 tuổi trở lên.

Ý nghĩa của hòa thượng, thượng tọa và tu sĩ theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam

Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay, theo truyền thống xưa, phân biệt Hòa thượng, Thượng tọa, Hòa thượng như sau:

Hòa thượng: Người xuất gia thọ đại giới (250 giới, sau sanh ít nhất 2 năm (10 giờ), tu ít nhất 2 năm, thọ ít nhất 20 tuổi.

Đức ngài: Độ tuổi tôn giáo của ngài ít nhất là 25 (45+)

Nhà sư: Độ tuổi tôn giáo của các nhà sư ít nhất là 40 (60+)

Các vị trên là những vị sư được giáo hội quyết định xuất gia, phải đáp ứng đủ các điều kiện trên, đặc biệt phải có phẩm hạnh, có công hoàn thành công tác Phật sự của giáo hội.

Cuối cùng, dù có tên là gì đi chăng nữa thì các nhà sư Phật giáo thực sự cũng được gọi là các nhà sư. Họ là những nhà sư già (thường là hơn 4 người, cùng chung sống hòa thuận và hành động theo quy định của pháp luật) , được các Phật tử tôn kính Vâng, đó là hình ảnh của Tăng trong Tam bảo (Đức Phật, giáo lý của Ngài, Tăng đoàn do Ngài sáng lập), và Ngài nguyện nương tựa suốt đời để thành Phật.

& gt; Giới thiệu về Hội Phật giáo Việt Nam

Theo Hiến pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam:

(1) Các vị t ươ ng pháp và người trên 60 tuổi và thọ giới trên 40 tuổi do tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị Hội đồng và báo cáo lên ban điều hành Được Hội đồng thông qua, báo cáo Thường trực Hội đồng duyệt và được Hội nghị Trung ương hoặc Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc thông qua. Sắc lệnh do Hòa thượng ban hành (Chương 3, Điều 37)

(2) Hội đồng cấp tỉnh và thành phố sẽ phong chức cho các nhà sư từ 45, 25 tuổi trở lên là những người có đạo hạnh, có công, có đức, có đạo, có đạo và trị quốc. Trình Ban Thường trực Phân ban Giáo phẩm thẩm định, và trình giấy chứng nhận thọ giới tại Đại hội Giáo phẩm và Đại hội Phật giáo toàn quốc, có nghị quyết và giáo lý kèm theo. Chỉ được ban hành bởi Vua của các Pharaoh. Thạc sĩ (Chương 3, Điều 38).

(3) Hàng ngũ Ni trưởng là Ni trưởng và Ni trưởng. Tiêu chuẩn và điều kiện thọ giới Tỳ kheo tại Điều 37 và Điều 38 của Hiến chương.