Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là gì?

đối tượng của hợp đồng là gì

Video đối tượng của hợp đồng là gì

1. Cơ sở pháp lý

Đối tượng là điều kiện cơ bản để giao kết và thực hiện hợp đồng. Mọi hợp đồng được giao kết đều có đối tượng cụ thể phù hợp với đặc điểm, tính chất và mục đích của hợp đồng. Tuy nhiên, các bên trong hợp đồng chỉ được giao đối tượng được pháp luật cho phép. Tương tự như hợp đồng dịch vụ, Điều 514 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cụ thể về đối tượng của hợp đồng như sau:

Điều 514 Đối tượng của hợp đồng lao động Đối tượng của hợp đồng lao động là công việc có thể làm được, không vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc vi phạm đạo đức xã hội”

2. Nội dung

Đối tượng của hợp đồng là tài sản, quyền sở hữu và công việc mà các bên phải ảnh hưởng bằng cách chuyển đối tượng đó cho nhau. Tùy theo loại hợp đồng được xác lập mà đối tượng cũng khác nhau, ví dụ: hợp đồng mua bán bất động sản, đối tượng là động sản, bao gồm động sản, bất động sản và các quyền tài sản (quyền chủ nợ, …); đối tượng của hợp đồng vay tài sản là tài sản không tiêu dùng được, v.v … Do đó, đối tượng của hợp đồng có thể giống hoặc khác nhau, miễn là phù hợp với bản chất và mục đích của hợp đồng. Đối với hợp đồng lao động, pháp luật quy định đối tượng là công việc, phải đáp ứng các điều kiện sau: – Thứ nhất, làm được việc. Do bản chất của hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ hoàn thành công việc cho bên sử dụng dịch vụ thì bên sử dụng dịch vụ phải trả phí dịch vụ cho bên cung cấp dịch vụ. Các nhà cung cấp dịch vụ tiếp thị các sản phẩm và dịch vụ mà họ cung cấp và làm việc theo yêu cầu của khách hàng. Các loại dịch vụ được quy định trong hợp đồng dịch vụ, chẳng hạn như dịch vụ thông tin doanh nghiệp, dịch vụ bảo trì, dịch vụ pháp lý, v.v., sản phẩm và dịch vụ là gì và công việc mà nhà cung cấp phải thực hiện. Nhà cung cấp phải thực hiện sửa chữa tài sản do khách hàng yêu cầu. Lưu ý rằng công việc là đối tượng của hợp đồng dịch vụ phải có tính khả thi. Khả năng thực hiện một công việc phụ thuộc vào hành vi của những người thực hiện công việc đó trong cuộc sống thực. Công việc không ai làm được thì không thể là đối tượng của hợp đồng nói chung và hợp đồng dịch vụ nói riêng. Đây là điều kiện đầu tiên để tác phẩm trở thành đối tượng của hợp đồng dịch vụ. – Thứ hai, công việc thực hiện không được vi phạm điều cấm của pháp luật. Điều 123 BLDS 2015 quy định: “Điều cấm là quy định của pháp luật không cho phép một chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. Việc cấm hành động của con người bị cấm theo luật và được hệ thống hóa trong quy phạm. Nhìn chung, đối tượng của hợp đồng phải là tài sản được pháp luật cho phép chuyển nhượng, không phải là tài sản bị cấm hoặc hạn chế chuyển nhượng. Đối với công việc, phải đảm bảo rằng đó không phải là việc làm trái pháp luật. Công việc bị coi là bất hợp pháp có thể bao gồm: Công việc bị cấm như mại dâm, môi giới mại dâm và các dịch vụ mà người biểu diễn không đủ điều kiện. Đối với các bản dịch không đáp ứng các điều kiện cung cấp là vi phạm pháp luật các điều kiện chủ thể. Một số luật có quy định chặt chẽ và chặt chẽ về điều kiện cung cấp đối tượng, như: dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ y tế, dịch vụ pháp lý … – 3. Công việc đảm nhận không được vi phạm đạo đức xã hội. Điều 123 năm 2015 quy định: “Đạo đức xã hội là quy tắc xử sự chung của mọi người trong đời sống xã hội, được xã hội thừa nhận và tôn trọng”. Đạo đức xã hội là hành vi được xã hội thừa nhận chung, mọi công dân đều có ý thức chủ quan của mình và tuân theo quy tắc xử sự chung. Công việc do nhà cung cấp dịch vụ thực hiện không được vi phạm truyền thống đạo đức và tác phong chung. Nếu nhà cung cấp dịch vụ ký hợp đồng với người sử dụng dịch vụ chỉ vì lợi ích của mình mà làm trái đạo đức xã hội thì hợp đồng đó vô hiệu. Do đó, đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc được thực hiện, không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội. Nếu các bên cố tình vi phạm sẽ phải chịu những trách nhiệm nhất định và gây thiệt hại tùy theo mức độ vi phạm.

Xem Thêm: Tóm tắt các Quy định của Luật Dân sự

Luật của các vị vua