Khái niệm đồng phạm trong tố tụng hình sự, thực tiễn và lý luận | VĂN PHÒNG LUẬT SƯ GIỎI Ở TPHCM

đồng phạm là gì cho ví dụ

Video đồng phạm là gì cho ví dụ

Điều 20 blhs năm 1999 quy định về những người đồng phạm:

Luật sư, công ty luật, công ty luật, luật sư giỏi, luật sư bào chữa, luật sư hình sự

“1. Đồng phạm là trường hợp có từ hai người trở lên cố tình thực hiện cùng một tội 2. Người tổ chức, kẻ phạm tội, người xúi giục, người giúp sức đều là đồng phạm. luật sư, luật sư bào chữa, luật sư hình sự hành nghề là người trực tiếp thực hiện tội phạm, người tổ chức là người xúi giục, cầm đầu, chỉ đạo việc thực hiện tội phạm, người xúi giục là người xúi giục, lôi kéo, thúc đẩy người khác phạm tội. Người giúp sức cho tội phạm Một người tạo ra tình trạng tinh thần hoặc thể chất. Luật sư bào chữa luat su bao chua 3. Tội phạm có tổ chức là hình thức đồng lõa cấu kết chặt chẽ giữa các thủ phạm. Luật sư giỏi

Điều 17 BLHS 2015 quy định về những người đồng phạm:

luật sư, công ty luật, công ty luật, luật sư giỏi, luật sư uy tín

1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. 2. Tội phạm có tổ chức là hình thức đồng lõa mà thông đồng chặt chẽ với nhau. Luật sư Hình sự, Cán bộ Thi hành án 3. Đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục và người giúp sức. luat su dat dai, một luật sư bất động sản, là một tội phạm trực tiếp. Người tổ chức là người xúi giục, cầm đầu, chỉ đạo thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người xúi giục, lôi kéo, thúc đẩy người khác phạm tội. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho tội phạm. 4. Đồng phạm sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi quá đáng của người thực hành. “Luật sư bất động sản, công ty luật

So sánh cơ bản quy định cũ và mới về đồng phạm:

Các blhs 2015 không thay đổi so với blhs 1999 với một số sửa đổi và bổ sung như sau: van phong luat su, luat su, ty luat, luat su gioi, luat su uy tin

p>

Đầu tiên : Điều 17 của blhs 2015 là 04 (blhs 1999 là 03), và Điều 20 blhs 1999 “2. Người tổ chức, người thực hành, kẻ xúi giục và người giúp sức đều là đồng phạm. luat su lo ke, luật sư thừa kế người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm Người tổ chức là người xúi giục, cầm đầu, chỉ đạo tội phạm Người xúi giục là người xúi giục, xúi giục, thúc đẩy người khác phạm tội Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho tội phạm. ”Luật sư Doanh nghiệp, Luật Thương mại 2015 Sửa đổi, bổ sung Điều 3 của BLHS, cơ cấu được thay đổi như sau:“ 3. Đồng phạm gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục. , người giúp sức Luật sư ly hôn là người trực tiếp thực hiện tội phạm Người tổ chức là người xúi giục, cầm đầu, chỉ đạo tội phạm Người xúi giục là người xúi giục, lôi kéo, thúc đẩy người khác phạm tội Người giúp sức là người tạo tinh thần cho tội phạm hoặc điều kiện vật chất. ”

Thứ hai: Điều 20 (3) của blhs 1999 quy định tại blhs 2015. Luật sư kinh tế, Điều 17 (2) Luật thương mại

Thứ ba: Mục 17 của blhs 2015 bổ sung Mục 4 “Đồng phạm không chịu trách nhiệm hình sự về hành vi quá mức của các học viên”. Luật sư dân sự đồng phạm là một khái niệm pháp lý phản ánh quy mô của tội phạm, thể hiện trong một vụ án có nhiều người tham gia. Tuy nhiên, không phải người tham gia nào cũng là đồng phạm mà nhiều người trong số họ phải cố ý phạm tội. Người phạm tội đã bàn bạc, thỏa thuận trước khi thực hiện tội phạm hoặc chấp nhận nguyện vọng giữa những người phạm tội. Trong luật hình sự có hai loại đồng phạm mà theo luật hình sự gọi là đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp (tội phạm có tổ chức). Âm mưu là tất cả tội phạm đều là người thực hành. Dịch vụ đòi nợ thuê, tội phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm cấu kết chặt chẽ giữa những người phạm tội (Điều 17 Khoản 2 Bộ luật Hình sự), là những trường hợp nhiều người cố tình bàn bạc, cấu kết với nhau, cùng lập kế hoạch thực hiện tội phạm dưới sự kiểm soát thống nhất của kẻ cầm đầu. Mỗi người trong số họ thực hiện một hoặc nhiều hành động và chịu sự kiểm soát của người lãnh đạo. Fast Divorce, Fast Divorce 2015 blhs s 17 (3) định nghĩa về đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục và người giúp sức.

Vui lòng xem kỹ video này, đây là một lời nhắc nhở về quyền quan trọng nhất của thủ tục hình sự.

Đăng ký kênh youtube của luật phu để xem những video tư vấn luật mới nhất

Căn cứ xác định đồng phạm:

Đầu tiên:

Cơ sở khách quan bao gồm số lượng người liên quan đến vụ án, mức độ liên quan của cùng một hành vi phạm tội, hậu quả của vụ án đồng phạm, v.v. – Căn cứ vụ án và số người: Điều 17 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định phải có từ hai người đồng phạm trở lên và tất cả đều phải đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm. .Trách nhiệm hình sự theo luật hình sự. – Sự liên kết dựa trên hành vi: Trong trường hợp đồng phạm thì mọi người phải cùng thực hiện tội phạm. Hành vi của một người đồng phạm này có liên quan chặt chẽ đến hành vi của một người đồng phạm khác. Hành vi của đồng phạm phải chỉ điểm cho tội phạm, đồng thời phải thúc đẩy, hỗ trợ nhau để cùng thực hiện hành vi phạm tội có lợi, tức là hành vi của đồng phạm là tiền đề của hành vi đồng phạm. Hành vi của tất cả những người trong vụ án đồng phạm là nguyên nhân dẫn đến hậu quả nguy hại của tội phạm đồng lõa. – Căn cứ vào Hậu quả có hại: Hậu quả nguy hại của tội phạm trong trường hợp đồng phạm là chung cho tất cả những người đồng phạm. Hành động của mỗi cá nhân trong vụ án phải chịu trách nhiệm về những hậu quả chung này, mặc dù một số trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần gây ra hậu quả bất lợi. Đây là đặc điểm quan hệ nhân quả của các trường hợp đồng phạm.

Thứ Hai:

Cơ sở chủ quan. Trong trường hợp đồng phạm, tất cả đều phải chịu tội cố ý thực hiện cùng một tội. Tất cả đều thấy rõ hành động của tất cả những người trong vụ án là nguy hiểm cho xã hội. Mỗi người đồng phạm trong vụ án đồng phạm thấy trước hành vi của mình và những người đồng phạm khác là nguy hiểm, thấy rõ hành vi của tất cả những người đồng phạm là nguyên nhân dẫn đến hậu quả nguy hại. Vụ án đồng phạm khác với vụ án thông thường ở các điểm sau: – Vụ án có từ hai đồng phạm trở lên, còn các vụ án khác chỉ do một người thực hiện. – Thông thường trường hợp của phụ có tính chất và mức độ nguy hiểm hơn trường hợp của một người. – Các trường hợp đồng phạm có hình thức cố ý vô ý, còn trường hợp do một người thực hiện có thể cố ý hoặc vô ý. – Hành động của những người trong vụ án đồng phạm có liên quan mật thiết đến tội phạm, còn hành động của cá nhân người phạm tội không liên quan đến ai. – Hậu quả có hại đối với người đồng phạm là hậu quả chung do tất cả những người đồng phạm gây ra, hậu quả có hại cho một người là hậu quả riêng do hành vi của mình gây ra.

Theo “Nguyên tắc chung của Luật Dân sự” năm 2015, thực tiễn nghiên cứu hệ thống đồng phạm, đồng phạm là việc người phạm tội có sự đồng tình hoặc tự nguyện chấp nhận trước khi phạm tội. Nghĩa là giữa những người phạm tội có sự đồng tình, thấu hiểu, tuy không có sự bàn bạc, thống nhất trước khi phạm tội nhưng không phải trường hợp nào cũng thành khẩn khai nhận là như nhau. tội phạm nhưng cần lưu ý những vấn đề sau: Thứ nhất: Theo từ điển tiếng Việt, “ý chí là cái hình thành từ trong ý thức” nên xét về mặt ý chí là quan hệ giữa tội phạm thỏa thuận và hiểu trong quá trình phạm tội, tất cả những tác động khách quan dẫn đến việc đồng phạm chấp nhận ý chí mà không phải là đương sự chấp nhận ý chí. Ví dụ, ngày 13/5/2015, người điều khiển xe máy Nguyễn Văn A rủ Đào Hoàng B đến thị trấn X. chơi, khi đến ngõ 3 đường M, thành phố X, anh ta dừng xe máy và yêu cầu B đợi. sau một lúc. Sang đường mua nước, b ngồi trên xe máy chờ a. Một lúc sau, a phá khóa và đậu xe máy vào lề đường, chạy lại chỗ b đang đợi và nói “có đi với tao không?”, B biết a lấy trộm xe máy nên chạy theo. b) Sau đó a và b Bị bắt xe mô tô trị giá 5.000.000 đồng. Trong trường hợp trên, có ý kiến ​​cho rằng b đã nhận di chúc nên b là đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Trong trường hợp này, hành vi của b được chấp nhận về mặt ý thức, nhưng sự chấp nhận về mặt ý thức của b không phải do ý thức hình thành mà được hình thành do tác động khách quan, tức là khi a qua đường, b không biết a đang trộm xe và b chỉ a nói “Bạn theo dõi tôi?” Được hiểu là trộm cắp tài sản và đi theo. Có thể thấy, việc hình thành ý chí của B có tác động khách quan nên B không đồng phạm với A phạm tội trộm cắp tài sản. Lần thứ hai: Thời điểm tiếp nhận của ý chí: Việc tiếp nhận ý chí được hình thành sau khi người phạm tội hoàn thành hành vi phạm tội không phải là phụ kiện. Trong trường hợp trên, hành vi trộm cắp tài sản của a đã hoàn thành kể từ thời điểm chuyển tài sản trái pháp luật và chỉ sau khi hành vi trộm cắp tài sản của a hoàn thành thì b mới được nhận di chúc. Do đó, ý chí của B được chấp nhận sau khi tội phạm của A hoàn thành nên B không phải là kẻ phụ tình của tội trộm cắp tài sản. Các quy định của “Lệnh đen” năm 2015 về đồng phạm kế thừa các quy định của “Lệnh đen” năm 1999, nhưng việc sử dụng đúng khái niệm đồng phạm trong thực tiễn tố tụng để giải quyết các vụ án là rất quan trọng.

Vai trò của những người đồng phạm

Trong thực tiễn xét xử, nhiều trường hợp có đồng phạm, Tòa án xác định nhầm vai trò của đồng phạm, đặc biệt là đồng phạm, dẫn đến đánh giá mức độ rủi ro của vụ án. Sự nguy hiểm của hành vi phạm tội sai trái.

Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015 về đồng phạm vẫn được kế thừa từ Bộ luật Hình sự 1999. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn tố tụng hình sự để giải quyết vụ án vẫn còn nhiều bất cập. Vai trò của người trợ giúp, vai trò của người thực hành.

Theo quy định của pháp luật hình sự nước ta, người thực hành là người trực tiếp phạm tội, tức là tự mình thực hiện hành vi do mặt khách quan quy định trong cấu thành tội phạm như trực tiếp tham ô tài sản; trực tiếp mua bán, tàng trữ ma túy; trực tiếp chôn, lấp, đổ chất thải nguy hại ra môi trường …

Người hành nghề có thể không phải là người chịu trách nhiệm chính trong một vụ đồng phạm, nhưng người hành nghề luôn là người quyết định thực hiện hành vi phạm tội vì hành vi của người hành nghề được coi là tội phạm. Với vị trí trung tâm, trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác phụ thuộc vào hành vi của người thực hành; đồng thời, nếu không có ai thực hành thì dù thủ đoạn của người tổ chức có thâm độc đến đâu thì tội phạm cũng chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị thực hiện. tội phạm, và hậu quả chưa xảy ra.

Người trợ giúp là người tạo ra các điều kiện tinh thần hoặc thể chất cho tội phạm. Tương trợ vật chất là việc cung cấp tiền bạc, công cụ, phương tiện, khắc phục chướng ngại vật, … tạo điều kiện cho tội phạm thực hiện tội phạm dễ dàng, thuận lợi hơn. Trợ giúp về tinh thần là những tình huống mà sự hướng dẫn, cung cấp thông tin, tư vấn về kế hoạch, cách thức phạm tội, hoặc hứa che giấu hoặc đem lại lợi ích đạo đức nhất định cho người phạm tội. …

Trong thực tiễn tòa án ngày nay, hầu như tất cả các vụ án hình sự do tòa án đưa ra xét xử đều có bị cáo với tư cách là người thực hành, nhưng hiếm khi bị cáo với tư cách là người giúp sức. Theo chúng tôi, nguyên nhân của điều này có thể là do sự bốc đồng, liều lĩnh của bọn tội phạm hiện nay đã tăng lên so với trước đây, và những người giúp sức nếu trước đây cố giấu mặt thì nay đã sẵn sàng tiếp tục tham gia. tội phạm, do đó, trong trường hợp này, vai trò của họ trong vụ án không còn là người giúp sức, mà là người thực hành. Mặt khác, việc thu thập chứng cứ đối với đồng phạm thường gặp rất nhiều khó khăn, do họ là người không trực tiếp phạm tội, ít để lại dấu vết nên chỉ với lời khai của đồng phạm, sự giúp sức của các đồng phạm khác, cơ quan tố tụng Khó truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng có thể những người đồng phạm khác đã không khai báo để đổi lại sự giúp đỡ của họ.

Tuy nhiên, qua các bản án hình sự mà các tòa án xét xử trong những năm gần đây, chúng tôi thấy rằng vai trò của đồng phạm không được xác định chính xác, và thủ phạm trở thành đồng phạm. Các trường hợp sau là ví dụ:

Vụ án thứ nhất: Ngày 13/4/2016, Lai viết thư và gọi điện cho nguyễn định rủ hoàng ngọc h, nguyễn thành, phan văn th và hoàng ngọc cùng đi trộm gỗ cao su của công ty. vt công ty bán và chi tiền; cả hai đều đồng ý. Tại khu rừng cao su, Topaz Jia được phân công đứng ở ngã tư, cách nơi xảy ra vụ cưa trộm gỗ sưa khoảng 500m để tăng cường cảnh giác. Vận chuyển gỗ. để tiêu dùng. Sau đó, tiền gỗ bán ra là 4.650.000 đồng, trừ chi phí và tiền ăn uống chung là 550.000 đồng một người và 200.000 đồng cho hoàng ngọc a. Sau đó, ngày 19/4/2016, nguyễn định s và le viết thư rủ phan văn t, luu bal và hoàng jama đến cưa trộm gỗ cao su của công ty vt tại địa điểm xảy ra vụ trộm lần trước. Hoàng ngọc a tiếp tục thực hiện nhiệm vụ canh gác như lần trước, những người còn lại chịu trách nhiệm cưa và vận chuyển gỗ, tập trung vào một xe thuê tại địa phương. Sau đó, số gỗ bán được là 5,301 triệu đồng, trừ chi phí và tiền ăn uống thường ngày, tôi và a được chia mỗi người 400.000 đồng, còn lại chia nhau mỗi người 920.000 đồng. Tòa sơ thẩm xét thấy Huang Yujia là đồng phạm và tuyên phạt anh ta 8 tháng tù, cho hưởng án treo.

Chúng tôi cho rằng việc xác định Topaz Jia là đồng phạm trong tội ác là không chính xác. Vì tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu đặc trưng cấu thành mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản. Trong vụ án trộm cắp tài sản, nếu chỉ có một bị cáo thì hành vi che giấu của nó thể hiện ở việc bị cáo vừa thu giữ tài sản, vừa quan sát và có biện pháp đối phó phù hợp, tránh bị người khác phát hiện. Khi có đồng bọn, lén lút có nghĩa là tất cả đồng bọn đều bị theo dõi và xử lý, hoặc có người được phân công canh giữ, có người trực tiếp thu giữ tài sản … Vì vậy, hành vi cảnh giác, cảnh giác là một phần của hành vi che giấu tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, và lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác đồng phạm, gộp lại là hành vi bí mật tham ô tài sản được mô tả ở mặt khách quan của tội phạm. Trộm cắp tài sản. Do đó, trong trường hợp này, Huang Yujia tham gia vụ án với tư cách là một học viên chứ không phải là người trợ giúp.

Trường hợp thứ hai: Nguyễn Đình a và Trần Đức D là đối tượng chuyên đòi nợ thuê. Đầu tháng 7/2015, Trần Văn h thuê Nguyễn Đình a và Trần Đức D đến nhà họ Vân để thu 172 triệu đồng. Trần Văn h đi cùng h và d đến nhà chị h, do không có tiền trả nợ nên chị H yêu cầu trả nợ và Trần Văn h đồng ý. Với ý định lấn chiếm tài sản của chị H, ngày hôm sau A và D đến nhà chị H 2 lần, đồng thời gọi điện, đe dọa, yêu cầu chị phải trả 20 triệu đồng trong vòng 10 ngày nếu không sẽ bắn chết. . Lo sợ trước những lời đe dọa trên, ngày 18/7/2015, chị H đã giao cho a và d 20 triệu đồng. Số tiền a và d không được đưa cho h mà đã được tiêu hết.

Khi xét xử vụ án, tòa án nhận thấy Ruan Dingjia là người chịu trách nhiệm chính trong vụ án, Chen Deding là đối tượng giúp sức và cùng với Ruan Dingjia, anh ta thực hiện các hành vi đe dọa và uy hiếp. Rõ ràng nhận định này của tòa là không chính xác, vì trong trường hợp này, nếu xét thấy d có động cơ tham gia ít hơn a, như a thể hiện thái độ tích cực hơn thì đó là người trực tiếp kiếm tiền từ chị h. …, toà án chỉ có thể nhận định rằng vai trò của d trong vụ án này hạn chế hơn so với a để áp dụng hình phạt nhẹ hơn, chứ không thể cho rằng d tham gia vào vụ án này với tư cách là một vai trò. giúp đỡ trò chơi. Trong trường hợp này, d là người trực tiếp đe dọa, lấn chiếm tài sản của chị h cùng với a nên phải xác định vai trò tham gia của d là của người thực hành chứ không phải người giúp sức.

Do đó, có thể thấy trong thực tiễn, nhiều trường hợp có đồng phạm, tòa án đã xác định nhầm vai trò của đồng phạm, đặc biệt là người thực hành là đồng phạm, dẫn đến đánh giá không chính xác về mức độ nguy hiểm của tội phạm.

Điều 54 (2) của blhs 2015 quy định rằng tòa án có thể áp dụng hình phạt dưới mức tối thiểu của khung hình phạt được áp dụng, nhưng lần đầu tiên trong vụ án đồng phạm là đồng phạm nhưng có rất ít hiệu lực.

Điều khoản chỉ ra rằng các nhà lập pháp quan điểm rằng nói chung trong các trường hợp phụ kiện, vai trò của phụ kiện có xu hướng bị hạn chế nhất và do đó có thể bị xử với mức án nhẹ hơn nhiều so với các loại phụ kiện khác. Tuy nhiên, khái niệm đồng phạm phải được hiểu theo tinh thần của khoa học luật hình sự chứ không phải theo cảm tính như trường hợp nêu trên.

“Thực hành hành vi thái quá trong các trường hợp kèm cặp” là gì?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2015, “đồng phạm là trường hợp hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm”.

Ví dụ: Chọn một ổ khóa và vào nhà kho để lấy trộm một chiếc TV. b thấy vậy, đợi a lấy ti vi rồi lẻn vào kho lấy trộm chiếc quạt bàn và một số phụ tùng xe máy, khi ra khỏi kho 200m thì cả a và b bị cơ quan an ninh bắt giữ. Mặc dù A và B đều phạm tội “trộm cắp tài sản” nhưng không cùng phạm tội nên trường hợp phạm tội A và B không phải là đồng phạm.

Luật Cơ bản xác định hai loại đồng phạm, theo luật hình sự gọi là đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp (tội phạm có tổ chức): trường hợp đồng phạm giản đơn đều là đồng phạm, và tất cả những người cùng phạm tội đều là người thi hành công vụ. Tội phạm có tổ chức là hình thức đồng lõa với sự cấu kết chặt chẽ giữa các thủ phạm (điều 17 (2)). Trong trường hợp đồng phạm, tùy theo quy mô, tính chất có thể có những người với các vai trò khác nhau, như: người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

Người hành nghề là người trực tiếp phạm tội. Tội trực tiếp là việc trực tiếp thực hiện các hành vi cấu thành mặt khách quan như: trực tiếp dùng dao chém nạn nhân, dùng súng bắn vào người nạn nhân, trực tiếp tham ô tài sản, trực tiếp nhận hối lộ, v.v. quyết định phạm tội. Dù là đồng phạm đơn thuần hay tội phạm có tổ chức thì luôn có những người thực hành. Không có người thực hành thì tội phạm chỉ ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, chưa thực hiện được mục đích phạm tội, hậu quả vật chất của tội phạm chưa xảy ra và người đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự. phù hợp với quy định tại Điều 14 của Luật Cơ bản (chỉ những hoạt động chuẩn bị thi hành Luật Cơ bản ”thì mới truy cứu trách nhiệm hình sự). nhiệm vụ). Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác rõ ràng phụ thuộc vào hành vi của người thực hành.

Thực tiễn xét xử cho thấy không phải lúc nào người thực hành cũng thực hiện đúng các hành vi do người đồng phạm khác quy định, có trường hợp người thực hiện tự nguyện không phạm tội hoặc tự nguyện dừng phạm tội giữa chừng, nhưng thực tế có nhiều trường hợp người thực hiện tự nguyện thực hiện hơn những người đồng phạm khác. hành vi bắt buộc. Luật hình sự đề cập đến hành vi phóng đại của những người thực hành trong trường hợp này với tư cách là đồng phạm.

Luật hình sự của nhiều nước cũng quy định rõ hệ thống “thừa” người thực hành trong các văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản luật hình sự. Ở nước tôi, quy định này trước đây chưa được ghi nhận trong “Luật Lao động”, nhưng nó được thừa nhận trên lý luận và thực tiễn khi cần xem xét trách nhiệm hình sự của người lao động và những người đồng phạm khác. đồng phạm.

Về lý luận và thực tiễn xét xử, đã khẳng định hành vi vượt quá của người thi hành công vụ trong vụ án có đồng phạm và hậu quả của hành vi vượt quá thì chỉ người thi hành công vụ phải chịu trách nhiệm hình sự. Sự cố xảy ra, các đồng phạm khác gánh chịu không phải chịu cảnh “người thừa”.

Vì vậy, khi nghiên cứu việc miễn trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác đối với hành vi vượt quá của người thực hành, chúng ta phải nghiên cứu nội dung của tội “quá đáng” do người thực hành gây ra để xác định trách nhiệm hình sự của người thực hành. Sự vượt quá đó loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác.

Hành vi quá khích của người thực hành là hành vi của người thực hành tự nguyện thực hiện hành vi phạm tội mà những người đồng phạm khác không hề hay biết. Hay nói cách khác, người thực hành quá đáng, những người đồng phạm khác không có ý định, không muốn hoặc không để cho hậu quả xảy ra. Ví dụ: trần quang a, nguyễn văn c, bui quoc t do thua cờ bạc nên bàn với a và c đến nhà ép mẹ t đưa chìa khóa tủ để rút tiền tiếp tục đánh bạc, a và c ý tưởng của đông. Vì t là con của m nên t chỉ định a và c trực tiếp làm. Trước khi đi, tôi dặn a và c chỉ cần dọa cô ấy đưa chìa khóa tủ chứ đừng làm gì khiến cô ấy khổ sở. Tôi cũng nói rằng nếu mẹ không sao thì chúng tôi không trách mẹ. Sau khi thương lượng và thống nhất, nửa đêm A và C lẻn vào nhà bà M, lợi dụng lúc bà đang ngủ, dùng tay bịt cổ bà và đe dọa: “Chìa khóa đâu? Đưa đây, chúng tôi sẽ giết anh! ”Bị đột kích, bà M không kịp phản ứng nên buộc phải giao chìa khóa cho C. Khi chị C mở tủ tìm tiền thì lấy khăn bịt miệng chị lại nhưng do chị vùng vẫy nên toàn bộ số chanh trong miệng chị bật ra, đồng thời kêu cứu. Sợ bị lộ, anh đặt cô nằm xuống, nằm sấp và dùng tay khống chế cô cho đến khi cô không thể vùng vẫy được rồi mới buông ra. c thấy anh hỏi thế này sao em lại làm thế này thì anh trả lời là chị ấy chỉ ngất đi không chết nhưng đúng lúc c lật tủ lấy 1 túi tiền của bà nội rồi cả 2 chạy ra đón. t. Tôi thấy a và c đến hỏi mẹ tôi có sao không, nhưng cả a và c đều không nói gì. t về nhà xem tình hình, a và c tiếp tục cá cược. Về đến nhà, tôi thấy mẹ bất động nên đưa đi cấp cứu nhưng bà nội đã chết. Trong vụ án này, ngay từ khi gây án, bọn chúng đã thống nhất chỉ để chị không dám đưa chìa khóa tủ nhưng trong quá trình phạm tội đã thực hiện hành vi quá khích dẫn đến tử vong. Do đó, chỉ có a bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người, còn c và t chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “cướp tài sản”.

Thực tiễn xét xử cho thấy, sự thái quá của người thực hành không chỉ đơn giản mà còn thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, như: lúc đầu chỉ cướp tài sản nhưng khi thực hiện hành vi giết người; lúc đầu chỉ vì một trò chơi, nhưng ngay khi đánh nhau. xong thì lấy tài sản của người bị đánh; lúc đầu bắt cóc là để lấy tài sản nhưng khi bắt cóc thì là hiếp; lúc đầu chỉ nói trộm trâu nhưng sau lại bắt trộm lợn gà .. . vì tội phạm Nó xảy ra theo nhiều cách khác nhau, và luật pháp hình sự chia sự vượt mức thành hai loại lớn: sự vượt quá về chất lượng hàng hóa. và vượt quá số lượng hành vi.

Chất lượng hành vi vượt quá có nghĩa là người thực hành trong trường hợp này có một người đồng phạm thực hiện một hành vi vượt quá có bản chất khác với tội phạm dự định của người đồng phạm kia. Nếu hành vi vượt quá cấu thành tội phạm thì tội phạm này khác với tội phạm kia đồng phạm có ý định thực hiện. Ví dụ: tran van t bàn với dang van h, pham quoc v chặn cướp, nhưng trước khi đi thì h bị kẹt nên chỉ t và v làm được. Khi phát hiện người điều khiển xe máy chạy qua h và t dừng lại cướp tài sản, phát hiện người điều khiển xe máy là phụ nữ nên cả hai nảy sinh ý định hiếp dâm và thực hiện hành vi hiếp dâm. Nạn nhân đã lấy trộm sợi dây chuyền. Sau khi mổ, v và t quay lại kể bị cướp dây chuyền vàng, hôm sau mang dây chuyền vàng đi bán thì bị phát hiện, bắt giữ. Qua quá trình điều tra, h được biết ngoài vụ cướp tài sản, v và t còn hiếp dâm nạn nhân. Sự vượt trội của v và t là vượt trội về chất vì tội “hiếp dâm” có bản chất khác với tội “cướp tài sản”. Việc vượt tiêu chuẩn về chất lượng không khó nên việc loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác sẽ dễ dàng hơn là vượt tiêu chuẩn về chất lượng.

Số lượng hành vi quá mức là hành vi quá mức của người thực hành trong trường hợp có đồng phạm có tính chất tương tự như hành vi phạm tội do những người đồng phạm khác thực hiện. Hiện nay. Trường hợp vượt quá này rất khó xác định nên nhiều trường hợp đồng phạm của người thực hiện hành vi vượt quá là rất rõ ràng, nhưng những người đồng phạm khác vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trái pháp luật của mình. Vì vậy, để phân biệt hành vi có vượt quá tiêu chuẩn hay không, cần tiến hành nghiên cứu ở các mức độ khác nhau.

Tình huống 1: Hành vi quá khích của Chấp hành viên trong vụ án có đồng phạm đã cấu thành tội phạm khác có cùng tính chất với tội phạm dự định của đồng phạm kia. Ví dụ, tran tuan a, pham quoc b, nguyen hong c thảo luận và đấu tranh cho h do phẫn nộ với dang van h. Khi gặp h, cả ba lao vào bằng bốn chân, đấm đá cho đến khi h ngã xuống. Thấy vậy b và c nói vậy là đủ rồi, đừng đánh nó, nếu không nó sẽ chết, rồi b và c bỏ đi. Nhưng anh vẫn ở lại và tiếp tục dùng gót chân thúc mạnh vào mạng sườn và dùng chân dậm mạnh vào ngực cho đến khi bất tỉnh. Kết quả là h chết. Kết quả khám nghiệm tử thi cho biết H tử vong do vỡ lá lách, xuất huyết nội tạng, suy tim xung huyết phổi, mất máu cấp. Cả a, b và c đều bị cả tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm kết tội “giết người” với cùng một tội danh. Sau khi bản án có hiệu lực, Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao đã kháng nghị theo thủ tục đảo ngược và Ủy ban Tư pháp Tòa án Nhân dân Tối cao quyết định chỉ kết tội “giết người”, còn Fan Guob và Ruan Hongc thì không. bị kết tội “giết người”, nhưng chỉ bị kết án về tội “cố ý gây thương tích”, vì xét thấy hành vi của trần tuấn a là vi phạm pháp luật nên b và c không phải gánh chịu hậu quả do hành vi quá đáng của a. Trong trường hợp này, hành vi quá đáng của người thực hành đã cấu thành tội phạm khác (“giết người”), nhưng hành vi đó có cùng bản chất với hành vi của những người đồng phạm khác (cùng đá, vi phạm liên quan đến sức khỏe con người).

Tình huống 2: Hành vi vượt quá của người hành nghề không cấu thành tội phạm khác mà vẫn là tội phạm của những người đồng phạm khác. Ví dụ: Lê khác t là chủ cửa hàng, trần thị là kế toán, vũ văn b là nhân viên bảo vệ cho công ty TNHH một thành viên thương mại và dịch vụ và họ đang bàn bạc về vụ trộm 100kg bột ngọt (MSG). ) Kho do t quản lý được bán để chia tiền. t và b được giao trực tiếp đến kho lấy chủ, còn m có nhiệm vụ sửa sổ cái để hợp thức hoá 100 kg bột ngọt còn thiếu. Nhưng trước khi vào kho lấy mì chính, t và b có đưa thêm cho tôi 50 ký nữa mà không nói với tôi. Trong trường hợp này, rõ ràng b và t có hành vi vượt quá, nhưng sự vượt quá đó không cấu thành các tội khác riêng biệt, m, t và b đều phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, nhưng tính chất và mức độ phạm tội của b là khác nhau. so với của t và m khác nhau. TNHS của t và b phải nặng hơn m.

Việc phân biệt hai loại hành vi quá mức nêu trên chỉ có ý nghĩa trong nghiên cứu khoa học, còn trên thực tế, dù chất lượng hay số lượng của hành vi vượt quá tiêu chuẩn thì người đồng phạm với hành vi quá mức của người khác đều không bị xử lý hình sự. nhiệm vụ. Các học viên.

Việc xác định xem những người đồng phạm khác có phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người hành nghề hay không cũng rất phức tạp trong thực tế. Bởi vì, trong quá trình phạm tội, người thực hành có nhiều hành vi nhằm đạt được mục đích mà những người đồng phạm khác cũng mong đạt được, trong đó có những hành vi mà người đồng phạm khác biết và đồng ý, nhưng cũng có những hành vi mà người đồng phạm khác không biết. Đó là thái độ phớt lờ, làm bất cứ điều gì bạn muốn. Vậy thì vấn đề trách nhiệm hình sự được xác định như thế nào khi hành vi của người thực hành dẫn đến hậu quả mà người đó không biết hoặc không muốn? Ví dụ: a, b, c vừa thương lượng vừa đe dọa chủ nhà cướp tài sản. Khi đi, họ che miệng bằng dao găm, dây thừng, giẻ lau và chanh. Khi đến nơi, A và B trói chủ, nhét chanh vào miệng, buộc giẻ rồi giao cho C canh giữ. Khi thấy cái nút của quản gia rơi xuống, anh ta sợ cậu chủ kêu cứu nên đã bóp cổ cậu chủ cho đến chết. Có ý kiến ​​cho rằng c bóp cổ chủ nhà đến chết là quá đáng nên c phạm tội “giết người” và “cướp tài sản”, c và b không phải chịu trách nhiệm gì về hành vi và hậu quả của hành vi này. Chỉ cấu thành tội “Cướp giật tài sản”. Tuy nhiên, trong trường hợp này, mặc dù a, b và c không bàn bạc trước về việc giết người nhưng a và b để c thực hiện hành vi của c thì không cần biết hậu quả như thế nào, miễn là cướp được tài sản; c treo cổ chủ nhà cũng cho lợi ích của đồng bọn Có được tài sản mà cả a và b đều mong muốn. Do đó, cái chết của chủ nhà do c trực tiếp gây ra thì cả a và b đều phải chịu trách nhiệm hình sự.

Do đó, nếu những người đồng phạm cho phép người thực hành hoàn toàn có quyền tự do hành động để đạt được mục đích phạm tội mong muốn của họ, thì không hành động nào của người hành nghề bị coi là bất hợp pháp và những người đồng phạm khác cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Chịu trách nhiệm về hành động và hậu quả của người hành nghề.

Để người hành nghề tự do di chuyển, tức là người hành nghề không bị hạn chế hoặc ràng buộc bởi những người đồng phạm khác. Nếu những người đồng phạm khác thực hiện các biện pháp ngăn chặn hoặc tích cực ngăn chặn hậu quả thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: truong quang t, vu minh h, hoang cong v bàn việc cướp nhà chú của v. v không trực tiếp thực hiện mà giao cho t và h chỉ trói chủ nhà để uy hiếp lấy tài sản chứ không hề gây án mạng. Sợ mình và t mắc sai lầm nên trước khi đi v đã kiểm tra và giữ lại 2 con dao găm mà mình và t định mang theo. Trên đường thực hiện vụ cướp tại nhà bác V., H và T tự ý về nhà lấy khẩu súng lục mà H đã chuẩn bị từ trước, vì nghĩ không có hung khí thì không làm được gì. Khi đến nơi, h và t đe dọa sẽ trói chủ nhà bằng súng rồi lục soát tài sản. Khi họ khám xét, chủ nhà đã cởi dây trói, kêu cứu và bắn chết chủ nhà. Trong trường hợp này, hành vi của h cũng là hành vi cướp tài sản mà v đã bàn bạc từ trước nhưng v đã có hành vi chủ động để hạn chế, ngăn chặn hậu quả xảy ra nên v không phải chịu trách nhiệm. Cáo buộc hình sự về tội “giết người” của h và t.

Trên thực tế còn có hành vi bỏ lọt tội phạm dựa trên lời nói, việc làm của những người đồng phạm khác (chủ mưu, tổ chức, xúi giục, giúp sức). Đáng lẽ ra tội ác phải buộc những người này phải chịu trách nhiệm về hậu quả do các học viên gây ra. Nhưng nếu căn cứ vào nội dung lời nói và hành động của mình, họ sẽ không ý thức bỏ qua những hậu quả do người thực hiện gây ra, vì nếu làm vậy thì họ sẽ không thể đạt được mục đích của mình. Ví dụ: nguyễn tiến n là đội phó đội điều tra án công an huyện, đồng chí q là điều tra viên vụ án được phân công điều tra, hà văn t là người tiêu thụ tài sản của người khác do phạm tội mà có. Quá trình điều tra, mặc dù có lý do xác định T đã tiêu thụ 17 máy bơm trộm cắp, nhưng không phải chỉ có 4 chiếc như T đã thừa nhận mà phải ra lệnh truy nã đối với t để tiếp tục làm rõ tội ác của t. T bị giam giữ giữa nhiều tù nhân, trong đó có Pei Xuanp, người bị các tù nhân khác trong phòng giam gọi là “kẻ bắt nạt”. q chấp nhận lời khai của t nhiều lần, nhưng t nhất quyết chống lại điều đó, và n và q nói với p rằng t phải đấu tranh để nó nói ra sự thật. Để lấy lòng cán bộ điều tra, sợ anh ta không được yên thân mà đánh mình, anh ta đã tổ chức cho bạn tù cùng phòng đánh đến mức ngất xỉu, phải đưa đi cấp cứu mới chết. .

Khi xem xét trách nhiệm của nguyen tien n và tông để viết q, có quan điểm cho rằng mặc dù q và n không có ý định lấy mạng t trước nhưng họ có cảm giác bị bỏ rơi. Kết quả là không có biện pháp ngăn chặn, P và các phạm nhân khác đã giết t vì lời khai rằng q và n “đánh anh nói thật”, do đó, n và q với tư cách là người xúi giục phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “ giết người ”. Tuy nhiên, theo lời nói của n và q, có thể thấy rằng nếu n và q để họ giết anh ta thì thực tế không đạt được mục đích khiến anh ta nói ra sự thật, mà logic của luật nói rằng nếu bạn đánh nhau. cho một cuộc chiến Hãy chiến đấu, nó sẽ tiết lộ nó, không cho nó biết cảm giác trở thành một tù nhân là như thế nào, hoặc bạn có thể chiến đấu vì cuộc chiến như bạn muốn. Do đó, việc giết t bởi p trong trường hợp này nằm ngoài mục đích của n và q, vì vậy các hành động của p và các nhóm của nó là hành động thái quá. Do đó, n và q không phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của anh ta. Nhưng n và q cho rằng hành vi đánh cháu T cũng là muốn gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của cháu nên hành vi của n và q phải chịu trách nhiệm hình sự. “Cố ý gây hại”.

Sự chủ quan của đồng phạm

Liên hệ với luật sư để được tư vấn thêm:

Legal phu & amp; Lawyers Tel: (08) 2223 7476 – 0922 822 466 luật sư nguyễn văn phú Email: phu.lawyers @ gmail.com Trang web: www.phu-architects .com www.phuluatsu.com