Ngoài việc quan tâm đến nội dung của tác phẩm, công chúng còn chú ý đến tác giả của tác phẩm, tức là tác giả của tác phẩm. Vậy tác giả là gì? Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về quyền tác giả? Thủ tục đăng ký bản quyền như thế nào? Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giải đáp thắc mắc của bạn đọc về câu hỏi trên.
Tác giả là gì?
Tác giả là chủ thể trực tiếp tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm thuộc lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học. Theo luật sở hữu trí tuệ, tác giả có các quyền nhân thân và tài sản. thừa nhận.
Hiện nay, trong các quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 chưa có quy định cụ thể về khái niệm “Tác giả là gì?” Do đó, định nghĩa trên chúng tôi cung cấp chỉ để tham khảo.
Hiện nay, việc xem xét pháp nhân có thể trở thành tác giả không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn là căn cứ để giải quyết các tranh chấp về quyền tác giả trên thực tế, đặc biệt là đối với các tác phẩm được hình thành thông qua hợp đồng.
Công ước Berne không quy định pháp nhân có thể là tác giả hay không, nhưng để lại quyền cho các Quốc gia: “Luật quốc gia áp dụng sự bảo hộ có quyền xác định ai là người thụ hưởng quyền tác giả của tác phẩm điện ảnh” (Điều 14.5.2. A). Như vậy, Công ước Berne cho phép các quốc gia coi pháp nhân là tác giả.
Trên thực tế, Mục 201 (b) của Đạo luật Bản quyền Hoa Kỳ quy định rằng, trong trường hợp không có thỏa thuận khác, một tác phẩm được hình thành theo hợp đồng có thể được tác giả bởi một pháp nhân. Điều 5 của Luật Bản quyền quy định rằng quyền tác giả tự động phát sinh kể từ thời điểm một cá nhân hoặc pháp nhân tạo ra một tác phẩm. Khi coi pháp nhân có thể là tác giả, luật bản quyền của các nước này nhấn mạnh yếu tố kinh tế của việc bảo hộ tác phẩm mà ít chú ý đến quyền nhân thân của tác giả (tức người trực tiếp tạo ra tác phẩm). làm việc) cho công việc.
Trái ngược với quan điểm trên, luật pháp của một số quốc gia nhấn mạnh đến quyền nhân thân hoặc nhân thân của tác giả, một ví dụ điển hình là luật bản quyền. Trường phái này không coi pháp nhân là tác giả, mà chỉ coi cá nhân là tác giả. Vì tác phẩm phải có “dấu ấn” cá nhân, những điểm khiến người này khác với người khác, đặc biệt là “dấu ấn” của mỗi người, có thể có những cách thể hiện khác nhau trong tác phẩm khác nhau, từ đó hình thành nên mối quan hệ giữa tác phẩm này với tác phẩm kia. khác biệt so với các tác phẩm khác. (kể cả các tác phẩm của cùng một tác giả). “Dấu ấn” này luôn ở đó, và nó thuộc về nhóm quyền tinh thần của mọi người.
Luật bản quyền quy định rằng thời hạn bảo hộ quyền nhân thân là vĩnh viễn khi chỉ cá nhân đó được coi là tác giả. Luật bản quyền hiện hành ở Việt Nam quy định rằng chỉ một cá nhân mới có thể là tác giả. Điều 8 Nghị định số 100/2006 / nĐ-cp quy định rõ:
– Tác giả là người trực tiếp sáng tác một số hoặc tất cả tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, bao gồm:
a) Cá nhân Việt Nam có tác phẩm được đăng ký bản quyền:
b) Người nước ngoài có tác phẩm được tạo ra và thể hiện ở một số dạng vật chất tại Việt Nam;
c) Người nước ngoài lần đầu tiên có tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam;
d) Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo các điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam tham gia.
– Các tổ chức và cá nhân hỗ trợ, nhận xét hoặc cung cấp tài liệu cho việc tạo ra tác phẩm của người khác không được coi là tác giả. “Hậu quả pháp lý của điều này như sau: quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đặt tên cho tác phẩm và quyền bảo vệ tính toàn vẹn của tác phẩm là không thể chuyển nhượng và vĩnh viễn.
Tác giả chỉ có thể từ chối tư cách là chủ sở hữu của tác phẩm, chứ không thể hủy bỏ tác phẩm sau khi tác phẩm được xuất bản, nói đúng ra: tác giả không thể thu hồi quyền nhân thân (không thể chuyển nhượng) của tác phẩm sau khi tác phẩm được xuất bản , ngay cả khi bản gốc của tác phẩm (bản sửa chữa đầu tiên của tác phẩm) không còn tồn tại.
Luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam cũng không định nghĩa thuật ngữ “đồng tác giả”, nhưng mặc nhiên cho rằng nếu hai hoặc nhiều tác giả đồng tác giả một tác phẩm thì họ là đồng tác giả của tác phẩm. Khái niệm này chỉ điều chỉnh quan hệ quyền tài sản giữa các đồng tác giả trong trường hợp này:
– Tác phẩm được coi là đồng sở hữu duy nhất;
– Tác phẩm được coi là thuộc sở hữu chung, trường hợp này áp dụng Điều 38 khoản 2 Luật Sở hữu trí tuệ: Tác phẩm do đồng tác giả sáng tạo, nếu có phần riêng thì được sử dụng riêng biệt và độc lập mà không ảnh hưởng đến việc sử dụng độc lập cho phần chung khác của tác giả, với các quyền nhân thân và tài sản đối với phần cụ thể đó. Quy định như vậy không phổ biến vì nó không quy định quyền nhân thân trong tác phẩm, như các ví dụ sau đây chứng minh:
– Một bài thơ được xuất bản và sau đó một nhạc sĩ chuyển thể bài thơ thành một bài hát, giả sử tác giả của bài thơ chỉ biết bài hát khi nó được xuất bản. Nếu bài hát (bao gồm cả phần nhạc và lời) được coi là tác phẩm đồng tác giả, thì pháp luật không thể điều chỉnh khi có tranh chấp về quyền nhân thân giữa các đồng tác giả, vì các tác giả có quyền nhân thân ngoài mỗi đồng tác giả của phần cụ thể của họ, họ cũng có các quyền nhân thân chung đối với toàn bộ tác phẩm đồng tác giả:
– Tác giả của bài hát không có lời đã qua đời, có người thêm lời vào bài hát để tạo thành bài hát, nếu tính theo quan niệm trên thì bài hát phải được coi là tác phẩm đồng tác giả do hai tác giả. đã viết Làm việc chăm chỉ cùng nhau.
Đề cập đến điều khoản về tác phẩm đồng tác giả trong luật bản quyền của Hoa Kỳ: “Tác phẩm đồng tác giả là tác phẩm do hai hoặc nhiều tác giả tạo ra với mục đích kết hợp các đóng góp của họ thành các phần không thể phân chia và phụ thuộc lẫn nhau thành một tổng thể hoàn chỉnh. ”, Trong đó các đồng tác giả phải có ý thức đồng sáng tạo tác phẩm chung.
Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về quyền tác giả?
Ngoài câu hỏi “ Tác giả là gì? thì bản quyền cũng là một vấn đề nóng được nhiều cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước quan tâm hiện nay khi có tác phẩm được sáng tác tại Việt Nam hoặc đăng ký tại Việt Nam.
Khi một tác phẩm được tạo ra, tác giả sở hữu các quyền đối với tác phẩm đó. Quyền tác giả sẽ cho phép tác giả quyết định mọi vấn đề liên quan đến tác phẩm mà tổ chức, cá nhân đã tạo ra và sở hữu.
Trong Phần 4 (2) của Đạo luật Sở hữu Trí tuệ 2005, “bản quyền” là quyền của một tổ chức hoặc cá nhân đối với tác phẩm do tổ chức hoặc cá nhân đó tạo ra hoặc sở hữu.
Kể từ ngày tác phẩm được sáng tạo, tác giả có quyền đối với tác phẩm, được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt hình thức, chất lượng, nội dung, ngôn ngữ, phương tiện, đã đăng ký hay chưa đăng ký, đã xuất bản hay chưa xuất bản.
Một tác phẩm là nỗ lực sáng tạo của tác giả, khả năng sáng tạo và vận dụng kiến thức về xã hội khác nhau của mỗi cá nhân. Khi sử dụng tác phẩm mà không được sự đồng ý và cho phép của tác giả, người sử dụng tác phẩm trong trường hợp này sẽ bị coi là vi phạm bản quyền theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Các cá nhân, tổ chức vi phạm bản quyền, gây thiệt hại và các quy định pháp luật khác phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Ngoài ra, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 cũng quy định các trường hợp đối tượng không được bảo hộ quyền tác giả, chẳng hạn như:
– Các chương trình tin tức hoàn toàn là tin tức công cộng;
– Các tài liệu pháp lý; tài liệu hành chính; các tài liệu khác trong lĩnh vực tư pháp; các bản dịch chính thức của văn bản.
Làm cách nào để đăng ký bảo hộ bản quyền?
Tác phẩm được đăng ký bảo hộ bản quyền phải được thể hiện trên một loại chất liệu cụ thể và phải là nguyên bản. Tính nguyên bản của tác phẩm là tác phẩm không được sao chép, bắt chước tác phẩm khác và phải do chính tác giả trực tiếp sáng tạo ra.
Tác giả muốn đăng ký bảo hộ quyền tác giả cần chuẩn bị những điều sau:
– Họ và tên, hộ khẩu thường trú, số CMND hoặc thẻ căn cước công dân, hộ chiếu, địa chỉ hiện tại;
– Thông tin chính xác về tác phẩm, bao gồm: tên sách, tác phẩm đã được xuất bản hay chưa, ngày xuất bản và tác giả tạo ra tác phẩm theo hợp đồng giữa chủ sở hữu bản quyền và tác giả.
-Bản quyền phần mềm máy tính, cần chuẩn bị:
+ Hai (02) mô tả sản phẩm cho 1 mặt hàng;
+ Hai (02) đĩa CD phần mềm hoạt động;
+ Bằng chứng về quyền sở hữu tác phẩm của tác giả;
+ Chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân, hộ chiếu;
+ Đối với trường hợp là công ty, bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
& gt; & gt; & gt; & gt; & gt; & gt; & gt; & gt; Tài liệu tham khảo: Đăng ký Bản quyền Phần mềm Máy tính
– Công việc cần viết, chuẩn bị:
+ Bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Thẻ căn cước công dân, Hộ chiếu;
Nếu là công ty, + giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
+ Giấy ủy quyền;
+ Bằng chứng về quyền sở hữu tác phẩm của người nộp đơn.
– Cần đăng ký bản quyền tác phẩm mỹ thuật ứng dụng:
+ Bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Thẻ căn cước công dân, Hộ chiếu;
+ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
+ Bản tuyên thệ bản quyền cho tác phẩm của người nộp đơn.
Thời gian thực hiện của cơ quan có thẩm quyền là 15 ngày làm việc, tính theo giờ hành chính.
Để biết thêm thông tin như Tác giả là gì , thủ tục đăng ký bản quyền và hơn thế nữa, bạn có thể liên hệ với đường dây nóng hỗ trợ của chúng tôi theo số 0981.378.999, xin chào!