- Giới thiệu
- Chương 1
Tâm lý học giáo dục đại học là một ngành khoa học được quan tâm gần đây, mặc dù những thành tựu của nó đã có từ rất lâu. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, khoa tâm lý giáo dục của trường áp dụng các kết quả đặc biệt từ tâm lý học và các ngành khoa học liên quan. Việc nghiên cứu tâm lý học giáo dục có định hướng cụ thể và yêu cầu cụ thể, cần có tính hệ thống. Tuy nhiên, điều cốt yếu là phải xác định được ý nghĩa của đối tượng nghiên cứu của tâm lý giáo dục đại học – nhiệm vụ nghiên cứu và vai trò của nó.
Cũng như bất kỳ ngành khoa học hay chuyên ngành nào, việc xác định đối tượng nghiên cứu trở nên rất quan trọng, vì điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hướng nghiên cứu khoa học hoặc chuyên ngành đó. Tâm lý giáo dục đại học cũng có một đối tượng nghiên cứu rất đặc biệt và độc đáo. Tính đặc thù và duy nhất này được quyết định bởi đối tượng rất cụ thể của tâm lý học dạy học đại học và bản chất của quá trình dạy học đại học có quan hệ mật thiết với tâm lý học dạy học đại học.
Có thể nói, đối tượng nghiên cứu của tâm lý học giáo dục đại học là các quy luật tâm lý về sự hình thành, biến đổi và phát triển của cá nhân và tập thể dưới tác động của hoạt động. Quy trình giảng dạy đại học), các quy tắc để đạt được kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật và kinh nghiệm – những giá trị mà sinh viên sẽ cần trong cuộc sống và công việc tương lai của họ.
Tâm lý học giáo dục đại học nghiên cứu các quy luật cơ bản trong quá trình giáo dục đại học từ một khía cạnh khác và nghiên cứu cụ thể các quy luật về sự hình thành, thay đổi và phát triển của hiện tượng. Điều này cũng đúng đối với các hiện tượng tâm lý trong quá trình đào tạo đại học (bao gồm cả dạy học và giáo dục học) là mối quan hệ giữa sự phát triển tâm lý của học sinh và giáo dục trong những điều kiện dạy học khác nhau. Ở đây, đối tượng nghiên cứu là những quy luật cơ bản hoặc những quy luật chung phản ánh những mặt cơ bản hoặc sự phát triển cơ bản của hoạt động dạy học ở trường đại học.
Ngoài ra, tâm lý học giáo dục đại học còn tập trung nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa hoạt động dạy và học của sinh viên, liên quan chặt chẽ đến những quy luật nhất định. Các luật này quy định hiệu lực của từng loại hoạt động và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giảng dạy tại Trường.
Tâm lý học giáo dục đại học sẽ giúp giải quyết nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là nâng cao hiệu quả của các hoạt động dạy và học, với mục tiêu đạt hiệu quả dạy học tối đa ở bậc đại học.
Các nhiệm vụ có thể phân tích chi tiết các khía cạnh khác nhau của tâm lý giáo dục đại học như sau:
Đầu tiên, tâm lý học giáo dục đại học phân tích các khía cạnh tâm lý của hoạt động học tập của sinh viên, đặc biệt là cơ chế tâm lý nhận thức của sinh viên về văn hóa xã hội và tri thức, tri thức khoa học và kỹ năng nghề nghiệp. Trên cơ sở đó vạch ra cơ sở tâm lý cho việc nâng cao hiệu quả của quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên. Ngoài ra, tâm lý giáo dục đại học nghiên cứu tâm lý tập thể của sinh viên và thành tích của họ trong các hoạt động xã hội, học tập và nghiên cứu khoa học …
Thứ hai, tâm lý học giáo dục đại học phân tích các khía cạnh tâm lý trong hoạt động dạy học của giáo viên, đặc biệt là cơ chế tâm lý hình thành khái niệm, trang bị và quá trình rèn luyện kỹ năng, cũng như cơ sở điều khiển tâm lý của học sinh trong quá trình dạy học. Trên cơ sở đó vạch ra cơ sở tâm lý cho việc nâng cao hiệu quả quá trình dạy học và giáo dục của giáo viên.
Thứ ba, tâm lý học giáo dục đại học cũng vạch ra những quy luật và phẩm chất quan trọng hình thành nhân cách của sinh viên – năng lực của trí thức, mà phẩm chất và năng lực của họ tương ứng với trình độ học vấn của họ.
Thứ tư, tâm lý học giáo dục đại học nghiên cứu tính cách và hoạt động của giảng viên và nhân viên, nghiên cứu cơ sở tâm lý để tổ chức hiệu quả các hoạt động dạy học. Đặc biệt là các biện pháp nhằm đưa hoạt động giảng dạy của giảng viên lên một trình độ kỹ thuật hoặc thậm chí là nghệ thuật.
Thứ năm, tâm lý học giáo dục đại học tìm thấy mối quan hệ giữa lĩnh hội tri thức và sự phát triển các chức năng tâm lý cá nhân của học sinh. Ngoài ra, Khoa Tâm lý Giáo dục Đại học cũng phân tích và đề xuất cơ sở giúp giảng viên và sinh viên thích ứng với các yêu cầu cụ thể của hoạt động học thuật đại học – môi trường mới, thách thức mới, yêu cầu mới. Mặt khác, tâm lý giáo dục đại học phân tích mối quan hệ này dưới góc độ nhân cách, được thể hiện trong hoạt động giao tiếp giữa giảng viên và sinh viên giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy và giáo dục.
Thứ sáu, tâm lý học giáo dục đại học cung cấp một lý lẽ tâm lý cho quan điểm hệ thống bằng cách nuôi dưỡng trí thức trẻ với bằng cử nhân. Đặc biệt cơ bản nhất là phân tích hình thức, cơ chế, quy luật hoạt động học của học sinh và cơ sở quan trọng để tổ chức hoạt động học từ các mặt nội dung, tổ chức, nhịp điệu, áp lực chung, khó khăn và áp lực. …
Tóm lại, nhiệm vụ của tâm lý học giáo dục đại học là tìm ra cơ sở tâm lý và các quy luật cơ bản để giáo viên tổ chức hoạt động dạy và hoạt động học của học sinh. Cơ chế tâm lý xảy ra trong mối quan hệ tương tác giữa hoạt động dạy và hoạt động học. trong môi trường giảng dạy đại học.
Tâm lý học giáo dục đại học có vai trò đặc biệt quan trọng đối với lý thuyết và thực tiễn. Ở cấp độ lý thuyết, tâm lý học giáo dục đại học làm cho lý thuyết tâm lý học có hệ thống và phù hợp trong các lĩnh vực chuyên môn tâm lý học khác nhau. Mặt khác, với cơ sở khoa học và những thành tựu của mình, tâm lý học giáo dục đại học ứng dụng nghiên cứu tâm lý vào hoạt động giảng dạy đại học.
Trên bình diện thực tiễn, tâm lý học giáo dục đại học thể hiện rõ các quy luật hình thành và phát triển tâm lý và là cơ sở khoa học của dạy học đại học, giúp cho hoạt động dạy học đại học có hiệu quả hơn. Nó có cơ sở khoa học vững chắc và dễ dàng áp dụng các kỹ thuật, kỹ thuật hiện đại. Khả năng thích ứng cao với ảnh hưởng tích cực. Mặt khác, tâm lý học giáo dục có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng cơ bản của hoạt động CĐ, đó là trau dồi trí tuệ, điều chỉnh nền giáo dục toàn diện của con người vào cuộc sống thực tiễn và nghề nghiệp.
Ảnh hưởng của tâm lý giáo dục đại học đối với đại học-cao đẳng có thể được phân tích như sau:
Tâm lý giáo dục đại học, trước hết, giúp các nhà lãnh đạo đại học thiết lập một hệ thống định hướng giảng dạy và giáo dục sinh viên dựa trên cơ sở khoa học của việc đào tạo và hình thành nhân cách.
Khoa Tâm lý Giáo dục Đại học cũng giúp các nhà lãnh đạo đánh giá giảng viên, tuyển dụng giảng viên và tạo cơ sở để nâng cao chất lượng giảng dạy.
Ngoài ra, Khoa Tâm lý Giáo dục Đại học cung cấp nền tảng cần thiết để các nhà quản trị đại học thực hiện các chức năng quản lý của mình theo cách tốt nhất có thể, chủ yếu dành cho hai đối tượng chính: giảng viên, giảng viên và sinh viên, những người nâng cao chất lượng đào tạo trong mối quan hệ tương tác. Trong đó, cơ sở tâm lý về đặc điểm của sinh viên trưởng thành sẽ trở thành yêu cầu quan trọng để người quản lý đáp ứng chặt chẽ yêu cầu của sinh viên trong quá trình đào tạo.
Ngoài ra, tâm lý giáo dục đại học cũng trở thành một công cụ quan trọng để các nhà quản trị đại học nhìn nhận công việc cụ thể của giảng viên đại học với những yêu cầu nhất định, từ đó giải quyết tốt vấn đề nhân lực trong môi trường giáo dục đại học.
Trước hết, việc tiếp thu và nắm vững cơ sở lý luận của tâm lý học giáo dục đại học sẽ giúp giáo viên tổ chức các hoạt động giáo dục đại học một cách khoa học và hiệu quả.
Mặt khác, yêu cầu cơ bản của dạy học tích cực thích ứng là dựa trên kiến thức tích lũy được của giáo viên khi nghiên cứu chi tiết, để hiểu sâu sắc đặc điểm tâm lý của học sinh. Trên cơ sở đó, việc tổ chức các hoạt động cụ thể đáp ứng yêu cầu tâm lý lứa tuổi học sinh và phát huy hết vai trò của các em sẽ trở thành chiến lược đáp ứng yêu cầu giảng dạy và giáo dục của các trường đại học Việt Nam.
Thứ ba, việc nắm vững mô hình quá trình hình thành khái niệm và rèn luyện kỹ năng triển khai tâm lý giáo dục đại học sẽ là cơ sở quan trọng để giảng viên rèn luyện kỹ năng, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. cải tiến các Biện pháp đánh giá kết quả học tập …
Thứ tư, tâm lý giáo dục đại học giúp trang bị lý thuyết hệ thống về dạy học đại học, trang bị cơ sở lý luận và cơ sở thích ứng, để giảng viên đại học dễ dàng tiếp cận các lý thuyết dạy học và giáo dục đại học khác nhau. Ngoài ra, giảng viên cũng sẽ thích ứng với những thay đổi theo nhu cầu thực tế, nhưng vẫn lựa chọn cách giảng dạy hiệu quả với tầm nhìn khoa học, không ngừng nâng cao khả năng thích ứng và hiệu quả công việc.
Thứ năm, đối với các cán bộ khác trong trường đại học, việc nắm vững tâm lý giáo dục đại học sẽ dẫn đến việc hình thành một cách sâu sắc cái nhìn khoa học và hệ thống về quá trình giáo dục đại học. Mặt khác, để hỗ trợ đắc lực và đáp ứng yêu cầu dạy học đại học, tổ chức các hoạt động giáo dục có điểm tựa, định hướng đúng đắn cho sự phát triển toàn diện nhân cách của học sinh và chú trọng kỹ năng nghề nghiệp.
– Môn Tâm lý Giáo dục Đại học giúp học sinh hiểu rõ hơn về đặc điểm tâm lý, đặc điểm nhân cách và đặc điểm học tập – hoạt động ở các lứa tuổi học tập. Thích ứng với các hoạt động cá nhân.
– Thứ hai, tâm lý giáo dục đại học tạo nền tảng cho sinh viên phát triển kỹ năng học tập – nghiên cứu dẫn đến tự học – tự giáo dục và tự rèn luyện đều theo hướng tích cực.
– Khoa Tâm lý Giáo dục Đại học cũng giúp tạo điều kiện thúc đẩy những sinh viên xuất sắc nỗ lực rèn luyện và hoàn thiện bản thân để chuẩn bị cho hành trình trở thành ứng viên cần thiết. Sẽ có sẵn cho các giảng viên Đại học trong tương lai gần …
Như đã đề cập trước đó, tâm lý học của giáo dục đại học không phải là một ngành khoa học sơ khai, tên gọi chính thức và độc lập của nó. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét những ý tưởng ban đầu trong tâm lý học phát triển và tâm lý học giáo dục, thì cũng có những ý tưởng nền tảng khá cũ trong tâm lý học giáo dục đại học theo quan điểm ứng dụng.
Ý tưởng về việc hiểu các đặc điểm tâm lý của người học, đặc biệt là người học trưởng thành và học cách tương tác với người học trưởng thành đã được quan tâm trong một thời gian dài. Bắt đầu từ thế kỷ XX, tâm lý học chính thức tách khỏi triết học và trở thành một khoa học độc lập, các ý tưởng nghiên cứu tâm lý trong nhiều ngành cũng bắt đầu được sản xuất và thực hiện. Có thể kể đến những ý tưởng này từ các nhà văn nổi tiếng từ năm 1890, ví dụ: juan vives, johannpestalozzi, Friedrich froebel, johann herbart… [55]. Từ khái niệm ban đầu về dạy học tích cực, đến các điều kiện vật chất đảm bảo dạy học có hiệu quả và dạy học tương tác dựa vào người học được đề cập một cách ngắn gọn.
Giai đoạn từ năm 1890 đến năm 1920, tâm lý học giáo dục và tâm lý học giáo dục cũng có nhiều giai đoạn phát triển rực rỡ từ những nghiên cứu này. Một số nhà tâm lý học và giáo dục học đã chứng minh sức lan tỏa của tâm lý học giáo dục là rất hữu ích. Các nhà khoa học và chuyên gia giảng dạy khác cũng thừa nhận sự tồn tại và những đóng góp của tâm lý giáo dục. Một cuộc thảo luận và phân tích sâu sắc về cơ sở tâm lý của lý thuyết giảng dạy hoặc giảng dạy theo nhóm hoặc thực hành giảng dạy. Khẳng định dạy học không chỉ là hình thành kiến thức mà còn là rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ, tình cảm sau những phân tích chi tiết, khoa học. Các tác giả có thể kể đến: James, Alfred Binet, Lewis Terman, Edward Thorndike, John Dewey… [55].
Không thể tách tâm lý học giáo dục đại học khỏi các ngành gần và rộng bao gồm tâm lý học giáo dục đại học, chẳng hạn như: tâm lý học lứa tuổi hoặc phát triển, tâm lý học giáo dục, tâm lý học giáo dục (bao gồm tâm lý học hướng dẫn và tâm lý học giáo dục), những ý tưởng cơ bản của tâm lý học giáo dục xuất hiện trong nghiên cứu trong những năm 1920 và hơn thế nữa, chẳng hạn như: dạy cách phát triển, cách tiếp nhận kiến thức của người học trưởng thành, dạy học theo sát khả năng nhận thức của người học hoặc cấu trúc nhận thức, loại bỏ người lớn khỏi việc học Chuyển đổi để trở thành tự học trong giảng dạy và công nghệ. Tác giả có thể kể đến vd: jerome bruner, benjamin bloom, nathaniel gage … [48].
Từ những năm 1980, nhiều tác giả nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học đã tiếp tục đưa ra cơ sở tâm lý học để tổ chức các hoạt động giảng dạy đại học. Từ việc nghiên cứu các đặc điểm của hoạt động tiếp thu, nhận thức và học tập trong giai đoạn đại học – cơ sở của học tập và nghiên cứu, đến những mong đợi và hứng thú của sinh viên trong thời đại học đã được khai quật sâu sắc. Ngoài ra, cơ sở tâm lý để tổ chức các hoạt động dạy và học ở bậc đại học, cơ sở khoa học của việc lựa chọn phương pháp dạy học ở bậc đại học và những yêu cầu đối với việc lựa chọn phương pháp dạy học ở bậc đại học. Mô hình dạy học được sử dụng một cách bài bản. Bạn có thể tham khảo tác giả này:
Theo thực tiễn của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, điều kiện xuất hiện và hình thành tâm lý giáo dục đại học như sau:
– Trước hết, số lượng giảng viên của các trường cao đẳng và đại học trên cả nước đã lên tới hơn 5.000 người (số liệu năm 2010), và việc giảng dạy đại học với kiến thức tâm lý học hoạt động trở nên rất quan trọng và cần thiết. Điều này đòi hỏi các môn học cơ bản và định hướng kỹ năng được giảng dạy tại trường đại học. Bộ môn tâm lý giáo dục ra đời là một tất yếu khách quan. Từ việc mở đầu chương trình đào tạo lý luận giảng dạy đại học cho giáo viên đại học những năm 1990, đến việc mở một số chương trình đào tạo thạc sĩ sư phạm đại học cần có sự nghiên cứu. Nghiên cứu chuyên sâu về các nguyên tắc cơ bản của tâm lý học hướng dẫn đang bắt đầu được quan tâm. Ban đầu, môn lý luận dạy học đại học gần như đã trở thành môn học bắt buộc, các kiến thức liên quan, đặc biệt là cơ sở tâm lý của hoạt động dạy học dần trở nên không thể thiếu. Mặt khác, tâm lý học giáo dục đại học đã trở thành một ngành (học phần) chuyên môn đặc biệt quan trọng để giảng dạy cho sinh viên sau đại học, và từ năm 1994, tâm lý học đã trở thành hệ đào tạo thạc sĩ tâm lý học. Vật lý ở các viện, trường … có thể bao gồm các chuyên gia giảng dạy bộ môn, ví dụ: pgs. ts. nguyen thach, pgs. ts. Người vi phạm, pgs. ts. Hoàng tử …
Ngày nay cũng có thể dễ dàng nhận ra với khoảng 300 trường cao đẳng và đại học trên khắp đất nước. Trong đó, các giảng viên là các nhà khoa học ở các lĩnh vực khác và đã được đào tạo ở các lĩnh vực khác. Được tạo ra để nghiên cứu hoặc ứng dụng đã trở thành giảng viên ở cấp cao đẳng và đại học. Chưa kể số lượng sinh viên ra trường tăng mạnh do nhu cầu học tập nâng cao, sự đôn đốc chỉnh đốn đội ngũ, tuyển dụng, đào tạo… đào tạo ra những giảng viên chất lượng. Tiêu chuẩn hóa trở thành một yêu cầu tất yếu. Bên cạnh các chương trình đào tạo do các trường cao đẳng, đại học thiết kế thì nội dung môn tâm lý giáo dục đại học thường không thể thiếu, chương trình đào tạo giáo viên gồm 7 học phần, trong đó môn tâm lý giáo dục đại học trở thành môn học bắt buộc. Nội dung cốt lõi của tâm lý học giáo dục đại học là tiếp cận hoạt động dạy và học với cơ sở tâm lý đồng thời với quá trình đào tạo, làm rõ phương pháp tiếp cận dạy và học, tổ chức hoạt động dạy và học với cơ sở tâm lý. Làm rõ phương pháp dạy học và tổ chức các hoạt động dạy học. Vì vậy, tâm lý học giáo dục đại học trở thành một công cụ rất quan trọng để phát triển kỹ năng nghề nghiệp của giáo viên theo hướng phương pháp kỹ thuật. Mặt khác, việc tiếp thu và tiếp thu kiến thức tâm lý giáo dục đại học sẽ giúp người giảng viên nhận thức được những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người giảng viên đại học, đồng thời nhận biết được những đặc điểm của giảng viên đại học. Và hoàn thiện bản thân trong tương lai … Đó là cách tiếp cận dựa trên nghiên cứu để tự học và tự định hướng. Chúng tôi nỗ lực giúp giáo viên trau dồi, nâng cao nhân cách mẫu mực, nhân cách toàn diện và nhân cách đổi mới …
Yêu cầu của thực tiễn cũng cho thấy khó có thể cung cấp những tri thức khoa học mang tính danh nghĩa như “bộ môn”, “học phần” hay ngành học khi khối lượng tri thức rất lớn, lớn, đa dạng và phong phú. Thời gian đào tạo cũng giảm theo hướng mới, học sinh tự chọn môn học mà mình thấy cần … Vì vậy, nếu không có bài bản thì khó làm tốt công tác giảng dạy đại học. Nước Pháp. Vì vậy, cơ sở khoa học tâm lý để tổ chức các hoạt động dạy và học sẽ rất có giá trị trong việc đáp ứng yêu cầu này. Khi nội dung rộng hơn hoặc thậm chí rộng lớn, thời gian có hạn, và sinh viên có thể ở một mức độ nhất định, ngoại trừ giảng viên phải có đủ can đảm và kỹ thuật để điều chỉnh vấn đề chính. , được thiết kế để truyền cảm hứng cho sinh viên — người học tự học, tự nghiên cứu và tự nghiên cứu suốt đời. Những gì giáo viên có được trong tâm lý giáo dục đại học là các phương pháp hướng dẫn sinh viên làm việc độc lập, nghiên cứu và suy nghĩ một cách chiến lược để giải quyết các vấn đề và vấn đề kỷ luật. Xung quanh khoa học chuyên môn, đặc biệt là tư duy và phương pháp làm việc … cần cấp thiết.
Dựa trên yêu cầu của thực tiễn, cơ sở lý luận và hệ thống lịch sử nghiên cứu, tâm lý học giáo dục đại học ra đời với tư cách là một chuyên ngành tâm lý học. Tâm lý học giáo dục đại học là nghiên cứu có hệ thống kiến thức, quan điểm và nguyên tắc ở trình độ đại học và các quy luật giảng dạy và giáo dục với một quan điểm phù hợp. Tâm lý giáo dục đại học đã trở thành một kiến thức cơ bản không thể thiếu trong quá trình giảng dạy đại học, quản lý công tác giảng dạy đại học ở tầm vĩ mô và vi mô.
Trước tiên, bạn có thể tham khảo khái niệm phương pháp luận khoa học chung. Phương pháp luận dựa trên các nguyên tắc, phương tiện và hình thức khoa học toàn diện. Phương pháp luận khoa học chung trình bày các câu hỏi thường gặp để thiết lập nghiên cứu khoa học, phương pháp tiến hành các hoạt động lý thuyết và thực hành, bao gồm các câu hỏi thường gặp để thiết lập nghiên cứu thực nghiệm, quan sát và thực nghiệm.
Phương pháp luận khoa học là phương pháp luận mà khoa học hiểu và cải thiện thế giới. Phương pháp luận của tâm lý học giáo dục đại học là quan điểm duy vật biện chứng thống nhất và quan điểm khoa học tâm lý về bản chất, ý thức, nhân cách và hoạt động của tâm lý, và nó là nguyên lý của tri thức. Giáo dục trong môi trường đại học.
Phương pháp nghiên cứu tâm lý giáo dục ở trường đại học cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
Các hiện tượng tâm lý của sinh viên, bao gồm các đặc điểm, quy luật và cơ chế của sự phát triển tâm lý, là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của tâm lý giáo dục đại học, vì vậy việc nghiên cứu các hiện tượng này phải đảm bảo tính khách quan. Điều này đòi hỏi những vấn đề này phải được nghiên cứu ở trạng thái tự nhiên và chân thực nhất của chúng, đồng thời các tiêu chuẩn về tính trung thực và chính xác phải được duy trì mọi lúc.
Khi nghiên cứu tâm lý học giáo dục đại học, việc tuân thủ nguyên tắc khách quan là yêu cầu quan trọng nhất, bởi vì chỉ khi thực hiện được yêu cầu này hoặc nguyên tắc này thì mới có thể quan sát được các đặc điểm tâm lý hoặc thông tin khái niệm. Chỉ những khái quát khác về lứa tuổi học sinh mới thực sự khách quan và đáng tin cậy thì cũng là một thách thức để thấy được khối lượng công việc, sự tỉ mỉ và chi tiết cần thiết cho nghiên cứu tâm lý giáo dục ở các trường đại học, nhất là khi luôn có những bằng chứng khoa học định lượng và định tính.
Trong nghiên cứu tâm lý học giáo dục đại học, nguyên tắc khách quan được đặc biệt áp dụng, và tất cả các dữ liệu tâm lý phải được lưu giữ và trở thành bằng chứng khoa học. Tuy những biểu hiện tâm lý của học sinh có thể chỉ xuất hiện một lần hoặc nhiều lần nhưng chúng phải được lưu ý, vì đây là những cơ sở rất quan trọng để minh họa cho các tham số của sự phát triển mức độ. Đây cũng là những luận cứ rất quan trọng mà các nhà nghiên cứu bắt đầu đưa ra giả thuyết. Nói cách khác, các kết luận chủ quan hoặc cảm tính của các nhà nghiên cứu trong khi quan sát sự phát triển tâm lý hoặc tiến bộ tâm lý của học sinh là không thể chấp nhận được vì nó vi phạm nguyên tắc khách quan. Tất cả những biểu hiện tâm lý của học sinh đều có cơ sở, và những kết luận trong quá trình phát triển tâm lý của học sinh phải dựa trên những số liệu chi tiết và rõ ràng.
Nguyên tắc này cũng yêu cầu việc học các hoạt động giảng dạy của giảng viên và các hoạt động học tập của học viên phải được thực hiện một cách chân thực và tự nhiên nhất. Cụ thể, nghiên cứu hoạt động học tập của sinh viên cần được nhìn nhận một cách khách quan trong môi trường học đường, giảng đường, môi trường cuộc sống hàng ngày … Hoặc, nghiên cứu về hoạt động giảng dạy của giảng viên cần được xem xét một cách khách quan thông qua các giai đoạn khác nhau của quá trình dạy học.phát triển khách quan.
Nghiên cứu tâm lý giáo dục ở các trường cao đẳng phải nhận ra rằng hoạt động tinh thần trong thời sinh viên luôn bị ảnh hưởng đồng thời bởi các yếu tố khác ảnh hưởng đến tâm lý con người. Từ điều kiện sinh học đến điều kiện xã hội hay vai trò đặc biệt quan trọng của bộ môn và các hoạt động của bộ môn đều được tính đến trong nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học. Tác động tổng hợp và đồng bộ này tồn tại và diễn ra như một quy luật phổ quát, và nó để lại dấu ấn quan trọng đối với sự phát triển tâm lý của trẻ. Đặc biệt, tuân thủ nguyên tắc này đòi hỏi phải thừa nhận rằng ảnh hưởng của giáo viên là đặc biệt rõ rệt, không chỉ trong hoạt động dạy học, mà trong chính hoạt động đó. Việc học tập của học sinh quyết định sự phát triển cá nhân của họ.
Ngoài ra, nghiên cứu tâm lý giáo dục của trường luôn ghi nhận ảnh hưởng đa chiều của sinh viên và mối quan hệ tương tác giữa điều kiện sinh học và tâm lý, mối quan hệ giữa môi trường và môi trường, mối quan hệ giữa gia đình và tâm lý học sinh. .Cũng cần thấy rằng nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học không thể tách rời sinh viên ra khỏi thực tế và nhóm sinh viên theo nguyên tắc biệt lập, dù chỉ là tương đối.
Những biểu hiện tâm lý của học sinh không phải do ngẫu nhiên mà có được. Do đó, những lời giải thích cho hành vi, thái độ hoặc sự lựa chọn giá trị của học sinh, và bất kỳ thay đổi nào khác, đều có nguồn gốc từ chúng. Những thay đổi này luôn dựa trên môi trường bên ngoài. Thuyết xác định quan duy vật biện chứng giúp các nhà nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học không chỉ đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ cộng đồng, mà còn nhận ra tất cả những ảnh hưởng tiềm ẩn về mặt tương tác, cộng tác đa chiều trong các nghiên cứu thay đổi hoặc phát triển của sinh viên.
Nguyên tắc này khẳng định rằng trí óc và ý thức không thể tách rời hoạt động của con người. Về mặt tâm lý, ý thức được hình thành, biểu hiện và phát triển trong hoạt động, định hướng, điều khiển và điều hòa hoạt động. Các đặc điểm tâm lý và quá trình tâm lý của học sinh phải được nghiên cứu thông qua các hoạt động, sự phát triển và sản phẩm của họ trong thực tế.
Ngoài ra, khi tính đến đặc điểm tâm lý của học sinh, còn phải chú ý đến mối quan hệ giữa biểu hiện và bản chất. Thành tích tạm thời của sinh viên không thể vội vàng quy vào các đặc điểm tâm lý, cũng như không thể vội vàng đi đến kết luận nếu dữ liệu từ các nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học chưa đủ “chín” về mặt ý nghĩa thống kê. Cụ thể, nghiên cứu các đặc điểm nhận thức hoặc cảm xúc của học sinh không thể được đặt không chính xác trong các hoạt động hàng ngày của học sinh, đặc biệt là trong các hoạt động học tập và nghiên cứu của họ.
Nguyên tắc này đòi hỏi sự hiểu biết tâm lý của học sinh phải dựa trên cơ sở tâm lý được thể hiện qua thái độ và hành vi của học sinh. Ngay cả việc tính đến diễn biến tâm lý thực sự của học sinh cũng dựa trên những lý do rất cụ thể, rõ ràng chứ không chỉ là những con số thô có thể đo lường được. Điều này đặt ra một yêu cầu rất khắt khe đối với việc nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học, đó là các chỉ tiêu nghiên cứu phải sát thực nhưng các hoạt động giảng dạy phải đồng bộ.
Tâm trí con người đã được sản sinh, vận động và phát triển. Tâm lý con người, nhất là tâm lý mọi lứa tuổi, nhất là lứa tuổi học sinh nhỏ tuổi phát triển không ngừng, vì vậy khi nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học cần nghiêm túc đảm bảo tính thực tế nhưng phải đảm bảo tính dự đoán, tính dự đoán được. tai nạn. Điều này làm cho việc nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học mang tính thực tiễn và ứng dụng cao.
Nguyên tắc này yêu cầu nghiên cứu tâm lý giáo dục ở trường đại học không được “cứng nhắc” dựa trên các chỉ số hiện có hoặc các kết luận cố định về sự phát triển tâm lý của học sinh. . Hãy xem xét từng thay đổi theo một khía cạnh rất mới mẻ, tích cực, đặc biệt là xu hướng thừa nhận nếu nó xảy ra theo đúng quy luật hoặc ít nhất là lặp đi lặp lại nhiều lần, dù chỉ là tương đối ..
Ngoài ra, nghiên cứu tâm lý học giáo dục đại học cần phải xem xét sự tiến triển và vận động liên tục của các hoạt động học tập và giảng dạy cả về bản thân từng hoạt động và từ góc độ quá trình. Điều này trở thành yêu cầu cơ bản để nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học, tránh thói quen nghiên cứu tiêu cực và quan điểm cảm tính, chủ quan, tự nguyện.
– Phương pháp là một cách học tập và nghiên cứu một đối tượng khoa học.
– Thực tế nghiên cứu cho thấy rằng các phương pháp lý thuyết được sử dụng kết hợp và tồn tại trong một hệ thống. Hệ thống phương pháp được lựa chọn theo nhiệm vụ nghiên cứu, mục đích nghiên cứu và các yêu cầu cơ bản. Khi các phương pháp nghiên cứu cùng tồn tại như một hệ thống, nó được gọi là phương pháp tiếp cận hệ thống. Cách tiếp cận hệ thống nghiên cứu là tất cả các phương pháp và phương pháp nghiên cứu một vấn đề hoặc một ngành khoa học nhất định. Đây là những cách hợp lý, có mục đích để dẫn đến một kết quả cụ thể, một quá trình cụ thể hoặc một nhiệm vụ thực tế cụ thể. Cách tiếp cận hệ thống cũng bao gồm các biện pháp kỹ thuật để thực hiện một phương pháp nghiên cứu với mục đích chứng minh tính chính xác của kiến thức hoặc tính thuyết phục của kiến thức đối với đối tượng nghiên cứu.
Có nhiều danh mục khác nhau:
* Hướng 1: Phân loại các nhà tâm lý học Liên Xô cũ.
Sự phân loại này được chia thành ba nhóm phương pháp.
Nhóm 1: Nhóm Phương pháp Tổ chức.
+ Phương pháp mặt cắt (so sánh).
Phương pháp cắt ngang là một nhóm các phương pháp tổ chức nghiên cứu. Đây là một tập hợp các phương pháp để nghiên cứu một số xu hướng chung dựa trên số lượng mẫu mặt cắt vừa đủ (bằng cách so sánh để đạt được kết quả)
+ Phương pháp cắt dọc.
Phương pháp này là phương pháp nghiên cứu tâm lý về một đối tượng trong một thời kỳ nhất định để phát hiện ra những biến đổi tâm lý của đối tượng đó và các quy luật phát triển tâm lý ở các giai đoạn khác nhau.
+ Phương pháp tổng hợp.
Phương pháp phức hợp là phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa phương pháp dọc và phương pháp cắt ngang. Phương pháp tinh vi đòi hỏi phải có đủ số lượng mẫu nghiên cứu để có tính thuyết phục về mặt thống kê (tính khách quan) và nghiên cứu sâu về một số ít chủ đề để cung cấp thêm dữ liệu đóng góp cho nghiên cứu định tính.
– Nhóm 2: Nhóm Phương pháp Thực nghiệm.
Nhóm phương pháp này bao gồm các phương pháp dùng để thu thập dữ liệu nghiên cứu, cụ thể là các biểu hiện của các quá trình tâm lý, các đặc điểm tâm lý, các quy luật tâm lý ở một độ tuổi nhất định, một độ chắc chắn nhất định. Trong nhóm phương pháp này, bạn có thể tham khảo các phương pháp cụ thể như: phương pháp quan sát, phương pháp phân tích sản phẩm, phương pháp phỏng vấn …
– Nhóm 3: Nhóm phương pháp lựa chọn và xử lý tài liệu thu thập được.
Nhóm phương pháp này chủ yếu được sử dụng để xử lý dữ liệu, dữ liệu hoặc đối số — đối số trong quá trình nghiên cứu. Thực chất đây là những phương pháp quyết định chất lượng nghiên cứu, vì nó cũng là một thao tác khoa học trong nghiên cứu. Có thể thấy, có hai cách tiếp cận chính là nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính.
+ Phương pháp nghiên cứu định lượng.
Khái niệm số lượng thường gắn với số lượng, tần suất, cường độ, mật độ … phỏng vấn mẫu, thí nghiệm và thậm chí cả quan sát, theo nhà nghiên cứu bryman, nghiên cứu đỉnh cao thường gắn với kiểm tra giả thuyết, thiết lập sự kiện, thống kê mô tả, Goodwin cho biết mối quan hệ giữa các biến và dự đoán có liên quan và định hướng đối với các nghiên cứu định lượng thường mang tính suy luận, kỹ thuật nghiêm ngặt và sử dụng nhiều công cụ đo lường khác nhau. Các phép đo chi tiết hơn.
Phương pháp nghiên cứu định lượng còn được hiểu là phương pháp nghiên cứu thu thập dữ liệu nghiên cứu chủ yếu thông qua thống kê toán học để tìm ra những đặc điểm tâm lý hoặc những biểu hiện tâm lý thường gặp của tập hợp mẫu. Nói cách khác, nghiên cứu định lượng là một phương pháp dựa trên phân tích định lượng các dữ liệu mà nghiên cứu thu thập được.
Phương pháp này cho phép các nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu từ một nhóm hoặc một số nhóm tuổi (nếu nghiên cứu là so sánh) và sau đó sử dụng các biện pháp và phương pháp định lượng để giải thích các phát hiện. Định lượng. Trong khi đảm bảo độ tin cậy và độ phân tách, phương pháp này yêu cầu việc chọn mẫu phải thực sự khoa học và việc xử lý thống kê phải thực sự khách quan để có thể đưa ra kết luận chính xác. Một trong những chương trình máy tính hiệu quả nhất để xử lý các thuật toán thống kê trong nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học hiện nay là chương trình spss được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, trước tiên các nhà nghiên cứu cần chú ý đến việc mã hóa dữ liệu và cài đặt để đáp ứng các thông số thống kê của nhiệm vụ nghiên cứu. Mặt khác, đọc số liệu thống kê và giải mã chúng và bình luận sắc nét là rất quan trọng. Việc sử dụng các phương pháp định lượng sẽ không giúp các nhà nghiên cứu phân biệt mối quan hệ qua lại giữa các thuộc tính tâm lý khác nhau về mặt định tính với định lượng tương tự so với bằng chứng thống kê. Trong trường hợp này, thực sự không thuyết phục nếu chỉ nói bằng con số mà không có bất kỳ bằng chứng hỗ trợ nào khác. Những dữ liệu này có thể thu được thông qua các phương pháp nghiên cứu định tính.
+ Phương pháp nghiên cứu định tính.
Khái niệm chất lượng dùng để chỉ các đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Nghiên cứu định tính có xu hướng tập trung vào quá trình và ý nghĩa, và rất khó để đo lường — đo lường — đo lường — đếm chính xác về số lượng, tần suất hoặc cường độ. Từ giữa thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng các phương pháp nghiên cứu định lượng chỉ tập trung vào logic của các con số mà bỏ qua tính phong phú, phức tạp và vướng mắc của các hiện tượng xã hội. Các phương pháp định tính tập trung vào bản chất xã hội của thực tế, ảnh hưởng của môi trường đến đối tượng nghiên cứu và mối quan hệ chặt chẽ giữa người nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu định tính thường hướng tới các giả thuyết và được tiến hành theo phương thức quy nạp. Nghiên cứu định tính thường sử dụng các phương pháp thu thập dữ liệu như phỏng vấn và quan sát để có được dữ liệu đa dạng và chi tiết. Nghiên cứu định tính thường yêu cầu nhà nghiên cứu xem xét dữ liệu khi bắt đầu nghiên cứu và có hướng đi thích hợp và sử dụng lại dữ liệu để minh họa thêm.
Nghiên cứu định tính là một phương pháp phân tích các tài liệu được thu thập trong các nhóm được lập kế hoạch, hay nói cách khác, một phương pháp dựa trên việc phân tích chất lượng và khả năng dự đoán của dữ liệu thu thập được. Dự đoán mô tả dưới dạng các khái niệm khoa học đã biết được sử dụng để giải thích một cách khoa học các giả thuyết.
Trên thực tế, nghiên cứu định tính là một yêu cầu rất quan trọng trong nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học. Khi các yêu cầu được mô tả bởi nghiên cứu định lượng không thể đáp ứng nhu cầu phác họa chân dung, trong thời đại tâm lý học, nghiên cứu định tính có thể đáp ứng yêu cầu này khá hiệu quả. a lời yêu cầu. Phương pháp nghiên cứu định tính không cho phép sử dụng các thước đo và phương pháp định lượng để diễn giải kết quả nghiên cứu, nhận xét mức độ phát triển của các thuộc tính tâm lý dự đoán, và xác định trực tiếp mối quan hệ của chúng, nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa các biến số. Ở đây là nghiên cứu định tính, giúp cho nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học mang tính tổng quát nhưng vẫn có thể đảm bảo tính chuyên biệt với các đối tượng khác nhau trong quá trình nghiên cứu.
Nghiên cứu định tính và định lượng, mặc dù khác nhau, không loại trừ lẫn nhau mà có quan hệ mật thiết với nhau. Cả hai phương pháp đều nhằm mục đích tìm kiếm kiến thức và hiểu biết khoa học, và mặc dù các định dạng khác nhau, chúng có thể giúp nhau phát triển sự hiểu biết thấu đáo về chủ đề. Hơn nữa, cả hai phương pháp hoặc cả hai đều yêu cầu các quy trình nghiên cứu nghiêm ngặt và chính xác để các kết quả từ một phương pháp này đủ tin cậy để sử dụng cho phương pháp kia và ngược lại. Hơn nữa, cả hai phương pháp đều kết hợp đo lường như một phần quan trọng của quá trình nghiên cứu. Các phép đo như vậy có thể bổ sung cho nhau. Việc ứng dụng nghiên cứu định tính và định lượng trong tâm lý giáo dục đại học sẽ cho phép nghiên cứu chi tiết và tổng quát những đặc điểm tâm lý cụ thể để tìm ra cơ sở khoa học nhằm tạo ra những tác động thích hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển tinh thần lớn nhất. quá trình phát triển.
* Hướng 2: Phân loại của một số nhà tâm lý giáo dục ở các trường đại học phương Tây.
Theo quan điểm này, cũng có nhiều cách phân chia tương đối khác nhau về phương pháp nghiên cứu trong tâm lý giáo dục đại học. Sự phân loại này đưa ra các phương pháp nghiên cứu khác nhau tùy theo tình trạng nghiên cứu của các chiều khác nhau. Các phương pháp nghiên cứu sau đây có thể được xem xét:
+ Phương pháp nghiên cứu mô tả và diễn giải.
+ Phương pháp nghiên cứu và nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trong điều kiện tự nhiên.
+ Phương pháp nghiên cứu lịch sử.
+ Phương pháp nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu dựa trên hình ảnh.
+ Phương pháp nghiên cứu cơ bản và ứng dụng.
+ Phương pháp nghiên cứu cá nhân và nhóm.
* Theo dõi 3: Phân loại các phương pháp nghiên cứu theo cách chúng được thực hiện.
Dựa trên phương pháp thực hiện, theo nghĩa hoạt động trong điều kiện nào, chủ yếu có hai phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm.
+ Phương pháp nghiên cứu phi thực nghiệm.
* Khái niệm:
Quan sát là một hình thức nhận thức có ý thức, sử dụng các giác quan để thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu và câu hỏi nhằm thực hiện mục đích đã nêu của công việc nghiên cứu.
Quan sát là một phương pháp có hệ thống, có tổ chức để quan sát và giải thích những gì đang xảy ra. Quan sát phải được sử dụng kết hợp thích hợp giữa các phương tiện cảm quan và công nghệ hỗ trợ.
Cụ thể hơn, quan sát trong nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học là phương pháp mà các nhà nghiên cứu theo dõi và ghi lại việc thực hiện các hoạt động tinh thần khác nhau của sinh viên hoặc giảng viên hoặc nhóm sinh viên, thành viên, nhóm giảng viên và sự phát triển của họ.
* Danh mục
Có thể thấy, dựa trên khái niệm phương pháp quan sát, việc phân loại phương pháp quan sát khá phức tạp, bạn có thể tham khảo các loại sau:
Phương pháp 1: Quan sát bao gồm quan sát tự nhiên và quan sát khách quan.
-Quan sát:
+ là một loại quan sát được sử dụng để ghi lại mọi thứ xảy ra trong quá trình nghiên cứu để làm dữ liệu.
+ Những quan sát này được sử dụng để cung cấp một cái nhìn tổng thể chung về đối tượng nghiên cứu và để theo dõi sự lặp lại trong quá trình nghiên cứu thông thường.
– Xem theo mục tiêu:
+ là một quan sát với hiệu suất và tiêu chí đánh giá cụ thể dựa trên các mục tiêu cụ thể được đặt trước.
+ Quan sát này được sử dụng để đánh giá một hoạt động cụ thể của tâm lý học sinh, một đặc điểm tâm lý cụ thể của học sinh trong quá trình nghiên cứu. Có thể sử dụng kiểu quan sát này bằng cách tra bảng liệt kê trình độ phát triển cụ thể của đối tượng được quan sát.
Phương pháp 2: Quan sát bao gồm quan sát từng phần và quan sát toàn diện.
– Phần quan sát:
Quan sát từng phần là quan sát được thực hiện khi đối tượng quan sát một số khía cạnh của hành vi và thái độ của đối tượng.
– Chế độ xem toàn diện:
Quan sát toàn diện là phương pháp quan sát nhằm quan sát các khía cạnh khác nhau của sự phát triển tâm lý của trẻ. Nếu không quan sát được toàn diện hoạt động tâm lý của trẻ trong thời gian nghiên cứu thì việc nghiên cứu cần được tiến hành trong một bối cảnh nhất định.
Cũng có thể đề cập đến một hình thức tự quan sát. Tự quan sát là quá trình trong đó người thực nghiệm lấy các hiện tượng quá trình tinh thần của chính mình làm đối tượng tri giác.
* Một số nguyên tắc cụ thể trong quan sát:
Áp dụng các nguyên tắc quan sát sau đây một cách tương đối linh hoạt và sáng tạo, tùy thuộc vào loại quan sát mà đối tượng lựa chọn tại thời điểm nghiên cứu.
– Giữ khoảng cách vừa phải và không để khán giả biết họ đang bị theo dõi.
– Không nói chuyện với đối tượng (kể cả giao tiếp bằng mắt, cử chỉ, điệu bộ …).
– Không can thiệp vào hoạt động của đối tượng, can thiệp vào hoạt động của đối tượng.
– Ghi lại mọi sự việc một cách khách quan, không bình luận phán đoán chủ quan, vội vàng.
– Các sự kiện được ghi lại theo đúng thứ tự mà chúng đã được quan sát và các sự kiện không nhìn thấy sẽ không được ghi lại.
– Tập trung vào đối tượng đang quan sát, ít bị các yếu tố thông tin khác làm phân tâm.
– Các báo cáo quan sát phải được chuẩn bị kỹ lưỡng và phản ánh các phương pháp và kỹ thuật đánh giá phù hợp.
– Nếu bạn muốn những quan sát của mình thực sự khách quan và khoa học, hãy chú ý đến độ tin cậy.
* Yêu cầu:
Để đảm bảo các quan sát hợp lệ, các nhà nghiên cứu cần đáp ứng các yêu cầu sau:
– Người quan sát phải có khả năng xác định mục tiêu, kế hoạch và cách thức tiến hành.
– Phải đảm bảo quan sát có hệ thống và liên tục. Trong quá trình nghiên cứu một hiện tượng tâm lý nào đó cần kết hợp nhiều giác quan để nhận thức đối tượng đảm bảo tính liên tục của thời gian.
– Phải nhận thức được các vấn đề trước khi quan sát. Một trong những yêu cầu khi thực hiện quan sát là người nghiên cứu phải hiểu và nắm chắc vấn đề cần quan sát để tham gia tích cực vào quá trình nghiên cứu.
– Chuẩn bị chu đáo các dụng cụ như: bút, giấy, máy ảnh, máy ghi âm … để có thể ghi lại đầy đủ kết quả quan sát.
* Quốc gia của Người quan sát:
– Bước 1: Xác định mục tiêu quan sát và quan sát đối tượng.
– Bước 2: Lập kế hoạch quan sát, bao gồm các yêu cầu sau; xác định vị trí, thời gian, đối tượng quan sát, phương tiện hỗ trợ, phương pháp quan sát, các lưu ý khi quan sát …
– Bước 3: Thiết kế hồ sơ quan sát hoặc loại hồ sơ quan sát khác.
– Bước 4: Quan sát và ghi chép theo mẫu hoặc quan sát tự nhiên về đối tượng nghiên cứu đã xác định.
– Bước 5: Định tính hoặc thông qua các nghiên cứu định lượng (nếu dữ liệu cho phép) phân tích dữ liệu thu thập được.
– Bước 6: Xây dựng các biện pháp giáo dục tức thời hoặc kế hoạch tác động lâu dài (Kế hoạch Giáo dục Cá nhân).
Sử dụng các bước quan sát trên một cách linh hoạt tùy theo các yêu cầu khác nhau của từng nghiên cứu. Tuy nhiên, các bước này được thực hiện để đáp ứng các yêu cầu của nguyên tắc quan sát và đảm bảo sự hỗ trợ của các công cụ khác hoặc các phương tiện khác để làm cho quá trình quan sát trở nên khách quan, khoa học và cung cấp dữ liệu thực tế nhất.
Như đã đề cập trước đó, trong mỗi nghiên cứu, các phương pháp quan sát được áp dụng cụ thể. Theo yêu cầu của nhiệm vụ nghiên cứu, xác định số liệu nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và các yêu cầu liên quan, các loại mẫu quan sát sẽ rất đa dạng, phong phú để đáp ứng yêu cầu nghiên cứu và thực hiện nghiên cứu theo đúng mục tiêu đã đề ra.
* Ưu điểm và nhược điểm:
+ Ưu điểm:
– Phương pháp này dễ thực hiện và có thể quan sát nhiều đối tượng cùng lúc.
– Thông tin quan sát rất phong phú (bằng lời nói và phi ngôn ngữ) về đối tượng.
– Rẻ hơn (ít hơn) so với các phương pháp nghiên cứu khác.
+ Nhược điểm:
– Người quan sát đóng vai trò thụ động hơn là chủ động gây ra hiện tượng nghiên cứu.
– Kết quả thu được mang tính chủ quan nên hạn chế tính khách quan của kết quả nghiên cứu.
* Khái niệm:
Anket là một phương pháp thu thập ý kiến chủ quan của một số lượng lớn người tham gia về một câu hỏi hoặc hiện tượng nghiên cứu bằng cách sử dụng bảng câu hỏi được thiết kế sẵn. Với mục đích nghiên cứu bằng cách yêu cầu người tham gia chọn phương án trả lời phù hợp nhất với quan điểm của họ (đối với câu hỏi đóng) hoặc đưa ra ý kiến chủ quan về câu hỏi được hỏi (đối với câu hỏi mở).
* Danh mục:
Nó có thể được chia thành điều tra trực tiếp và điều tra gián tiếp.
+ Khảo sát trực tiếp là nghiên cứu viên trực tiếp thiết kế bảng câu hỏi, khảo sát và lấy kết quả nghiên cứu một cách trực tiếp, xử lý kết quả nghiên cứu.
+ Khảo sát gián tiếp là khảo sát được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, Internet, truyền hình, v.v … hoặc một bảng câu hỏi mà nhà nghiên cứu có thể ủy quyền cho người khác phân phát thay cho họ. Chuẩn bị theo số liệu nghiên cứu …
* Yêu cầu:
– Câu hỏi phải ngắn gọn, dễ hiểu và phù hợp với trình độ của đối tượng.
– Cần kết hợp câu hỏi đóng và câu hỏi mở trong bảng câu hỏi, sự kết hợp này cho phép nghiên cứu sâu về động cơ, nhu cầu và mong muốn của đối tượng nghiên cứu.
– Cần tạo ra một bầu không khí chân thành và hiểu biết lẫn nhau giữa nhà nghiên cứu và người được nghiên cứu để có được thông tin khách quan và trung thực về đối tượng nghiên cứu.
– Các lựa chọn câu hỏi và câu trả lời phải được chuẩn bị cẩn thận và chính xác khi chuẩn bị bảng câu hỏi, và một nghiên cứu thử nghiệm nên được thực hiện trước khi thực hiện một nghiên cứu quy mô lớn.
– Yêu cầu hướng dẫn chi tiết về cách chọn hoặc trả lời câu hỏi.
* Ưu điểm và nhược điểm:
+ Ưu điểm:
– Thu thập thông tin phong phú về một đối tượng trong một khoảng thời gian ngắn.
– Nhiều đối tượng có thể được nghiên cứu cùng một lúc.
– Phương pháp này dễ làm, có thể học trong hội trường hoặc ngoài đường …
+ Nhược điểm:
– Bao trùm là phương pháp có sự đầu tư nhất định về chi phí (để soạn thảo câu hỏi, công cụ khảo sát, in phiếu điều tra, xử lý kết quả …).
– Thông tin thu được vẫn mang tính chủ quan của nhà nghiên cứu (kết quả của việc thiết kế câu hỏi).
– Thông tin thu được rất phong phú, đa dạng và phức tạp nên rất khó xử lý …
Nên kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác để tăng tính khách quan của kết quả thu được.
* Khái niệm:
Phỏng vấn là phương pháp điều tra ý kiến của đối tượng, thông qua trao đổi trực tiếp giữa đối tượng phỏng vấn và đối tượng, nhằm thu thập ý kiến chủ quan của đối tượng về một vấn đề hoặc hiện tượng tâm lý nào đó, làm mục đích nghiên cứu.
* Danh mục
– Phỏng vấn Chuẩn hóa:
Một cuộc phỏng vấn tiêu chuẩn là một cuộc phỏng vấn trực tiếp giữa người phỏng vấn và đối tượng dựa trên một quy trình và nội dung và câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn.
– Đi đến cuộc phỏng vấn tiêu chuẩn:
Đi phỏng vấn tiêu chuẩn là phỏng vấn trực tiếp không có quy trình và kế hoạch cụ thể, người phỏng vấn có quyền đặt câu hỏi dựa trên tình huống và cơ hội phỏng vấn.
– Phỏng vấn sâu:
Phỏng vấn sâu là một loại phỏng vấn giữa một nhà nghiên cứu và một đối tượng về một vấn đề. Phỏng vấn sâu có thể giúp các nhà nghiên cứu nghiên cứu sâu hơn về các hiện tượng tâm lý như động cơ, sở thích, niềm tin, lý tưởng,… Phỏng vấn sâu thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác. Nghiên cứu một vấn đề hoặc hiện tượng.
* Yêu cầu:
– Người phỏng vấn phải hiểu rõ về câu hỏi nghiên cứu. Thường thì trước khi tiến hành phỏng vấn người phỏng vấn phải nắm chắc câu hỏi nghiên cứu để nắm được nội dung phỏng vấn.
– Câu hỏi đưa ra phải ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ của đối tượng. Khi thực hiện phỏng vấn, người phỏng vấn cần biết trước đối tượng phỏng vấn là ai, tuổi tác, trình độ … để đưa ra những câu hỏi phù hợp.
– Phải tạo ra một bầu không khí thân mật, chân thành và hiểu biết lẫn nhau giữa người phỏng vấn và đối tượng.
– Chuẩn bị sẵn sàng các phương tiện cần thiết cho buổi phỏng vấn như máy ghi âm, máy ảnh, giấy, bút …
– Hạn chế tối đa các yếu tố ảnh hưởng đến tính khách quan và chính xác của cuộc phỏng vấn. Ngoài ra, các yếu tố gây nhiễu đã được lưu ý trong các cuộc phỏng vấn để đảm bảo dữ liệu chính xác.
* Khái niệm:
Phương pháp thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu tác động có chủ đích đến đối tượng trong những điều kiện được tạo ra nhằm bộc lộ hoặc làm thay đổi một hoặc một số đặc điểm của đối tượng mà người nghiên cứu mong muốn.
* Danh mục:
Phương pháp thực nghiệm có thể được chia thành phương pháp thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.
– Thử nghiệm phòng thí nghiệm:
Thử nghiệm trong phòng thí nghiệm là một thử nghiệm được tổ chức chặt chẽ và chọn những tình huống khó để thử nghiệm.
– Thử nghiệm tự nhiên:
Một thí nghiệm tự nhiên là một thí nghiệm được sắp xếp trước tương đối được tiến hành trong những điều kiện tương tự như tự nhiên.
* Một số nguyên tắc khi thử nghiệm:
– Phải đảm bảo rằng việc tổ chức thí nghiệm được thực hiện một cách hết sức bình thường và không can thiệp quá nhiều vào lối sống của đối tượng.
– Xác định các biến thực nghiệm và phụ thuộc trong quá trình nghiên cứu thử nghiệm.
– Kiểm tra càng nhiều biến nhiễu càng tốt cho quy trình thử nghiệm.
– Thực hiện các kết quả thí nghiệm một cách kiên nhẫn, cẩn thận và đảm bảo tính khách quan.
* Các bước thử nghiệm:
Các thí nghiệm được sử dụng ngày nay trong nghiên cứu tâm lý giáo dục tại các trường đại học thường là các thí nghiệm về ảnh hưởng đến việc cải thiện một khả năng nhất định hoặc thay đổi một biểu hiện nào đó trong sự phát triển tâm lý. Bạn có thể tham khảo các bước cơ bản sau:
+ chọn các nhóm kiểm soát và thử nghiệm tương tự (đầu vào đo lường)
+ Thử nghiệm các biện pháp đã gợi ý ở nhóm thực nghiệm và không áp dụng các biện pháp ở nhóm thực nghiệm trong nhóm đối chứng.
+ Ảnh hưởng và đo lường cả hai nhóm kết quả (lần thứ hai).
+ Tiếp tục thử nghiệm với nhóm khác (nếu cần) và đo lại kết quả rồi đưa ra kết luận.
* Khái niệm:
Phân tích sản phẩm hoạt động là phương pháp nghiên cứu nhằm tìm hiểu, đánh giá trình độ phát triển công nghệ và giá trị văn hóa tinh thần của một người hoặc một nhóm người thông qua các sản phẩm và dịch vụ, đồng thời tạo ra các sản phẩm để phục vụ các mục đích nghiên cứu đã định sẵn. Trong tâm lý giáo dục ở trường đại học, áp dụng phương pháp này để hiểu được diễn biến tâm lý của các đối tượng được gửi gắm vào các sản phẩm hoạt động hàng ngày của đối tượng.
* Yêu cầu:
– Nhà nghiên cứu phải nắm chắc câu hỏi nghiên cứu để có thể trình bày, phân tích và đánh giá sản phẩm một cách trung thực, khách quan.
– Giai đoạn, thời gian và điều kiện xuất hiện của sản phẩm phải được phân tích chi tiết và chuyên sâu, đồng thời phải có sự so sánh với các sản phẩm cùng loại đã có trên thị trường.
– Cần phân tích và so sánh để tìm ra các đặc điểm phát triển và kỹ năng của các quần thể và cá nhân tạo ra các sản phẩm sáng tạo.
* Khái niệm:
Phương pháp trắc nghiệm, còn được gọi là thử nghiệm (nghiên cứu theo mô hình), là một phương pháp nghiên cứu dựa trên việc thu thập các kết quả đáng tin cậy từ một mẫu tương đối lớn gồm các cá nhân khác nhau. Các mô hình tiêu chuẩn hóa như một đánh giá về các vấn đề tâm lý chung hoặc các đặc điểm tâm lý của một người – một nhóm người. Nói cách khác, Bài kiểm tra Tâm lý Giáo dục Đại học là một bài kiểm tra được tiêu chuẩn hóa trở thành một công cụ để các nhà nghiên cứu đo lường biểu hiện tinh thần của con người.
* Danh mục:
Phương pháp trắc nghiệm có nhiều dạng, chẳng hạn như thử nghiệm nhóm, thử nghiệm cá nhân, thử nghiệm tiêu chuẩn hóa hoặc thử nghiệm thiết kế.
* Yêu cầu:
– Bài kiểm tra đối với môn học đã chọn phải là hình thức trắc nghiệm khách quan.
– Câu hỏi – Các bài tập trong đề kiểm tra phải thực sự khoa học và theo đúng tiêu chuẩn mới được ra đề kiểm tra.
– Bài kiểm tra phải đo chính xác những gì đang được đo, nếu không, phép đo phải rõ ràng.
– Có những yêu cầu về văn hóa, ngôn ngữ và những yêu cầu cụ thể cần lưu ý khi sử dụng trắc nghiệm để nghiên cứu tâm lý đối với các nhóm tuổi khác nhau, đặc biệt là với giảng viên và sinh viên.
– Tâm lý học đại cương nghiên cứu những vấn đề chung nhất trong quá trình phát triển tâm lý con người làm cơ sở cho hướng nghiên cứu tâm lý học giáo dục ở Trường.
– Tâm lý học đại cương nghiên cứu những đặc điểm cơ bản của tâm lý con người, còn Tâm lý học giáo dục đại học nghiên cứu cụ thể lứa tuổi học sinh nên Tâm lý học giáo dục đại học sẽ bổ sung và làm rõ những kiến thức về tâm lý học đại cương.
Do đó, có thể nói rằng các kết quả nghiên cứu tâm lý chung được tìm thấy trong các khái niệm như quá trình tâm thần, trạng thái tinh thần, v.v., sẽ trở thành cơ sở cho tất cả các khía cạnh của nghiên cứu tâm lý giáo dục đại học. Một khía cạnh của quá trình phát triển của học sinh. Ngược lại, tâm lý học đại cương khó có thể trở nên gần gũi và chân thực nếu không dựa vào kết quả của tâm lý học giáo dục đại học, cụ thể là tâm lý học đại cương và tâm lý học giáo sư.
– Tâm lý giáo dục đại học là cơ sở lý luận quan trọng của giáo dục học. Giáo dục là một ngành khoa học nghiên cứu quá trình giáo dục con người. Đối tượng nghiên cứu của sư phạm là quá trình giáo dục, là quá trình vận hành đặc biệt trong các hoạt động xã hội của con người.
—— Ngược lại, tâm lý học giáo dục cung cấp kết quả nghiên cứu cho việc tổ chức hợp lý quá trình giáo dục, là một quá trình hoạt động đặc biệt trong hoạt động xã hội của con người.
Từ góc độ mối quan hệ giữa tâm lý giáo dục đại học và lý thuyết dạy học chủ đề, lý luận dạy học chủ đề làm cho việc giảng dạy và giáo dục hiệu quả hơn. Các nhà giáo dục chỉ có thể giáo dục học sinh một cách đúng đắn và đề ra các biện pháp dạy học hiệu quả nhất chỉ khi các em hiểu rõ đối tượng của mình Tâm lý giáo dục đại học đã trở thành một khoa học cơ bản có “trọng lượng”, đặc biệt là lý luận dạy học đại học.
– Ngoài ra, mang tính định hướng giáo dục đòi hỏi tâm lý giáo dục đại học phải được nghiên cứu một cách cụ thể, có ý nghĩa và có tính ứng dụng cao. Ngay cả căn cứ quan trọng nhất để người học lựa chọn phương pháp dạy học, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức hoạt động cũng phải dựa vào đặc điểm tâm lý – nhận thức của từng lứa tuổi. giá trị. đến giáo dục. Quan trọng nhất, Tâm lý giáo dục đại học sẽ giúp giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đánh giá thực trạng và sự phát triển của sinh viên để đưa ra các biện pháp tác động phù hợp và hiệu quả.