Vật phẩm nào được sử dụng ở vòng quay định mệnh của

Vật phẩm nào được sử dụng ở vòng quay định mệnh của

lts- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã thành công tốt đẹp. Các văn kiện được Đại hội thông qua là kết tinh trí tuệ, ý chí, khát vọng của toàn đảng, toàn dân và toàn quân; là sự tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn 30 năm đổi mới; Đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020 được thực hiện trong 5 năm, Hiến pháp 2013 thực hiện trong 2 năm. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XII khẳng định quan điểm, đường lối đổi mới, có ý nghĩa quan trọng trong việc chỉ đạo, chỉ đạo các hoạt động của Đảng và đất nước, phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới. .

Bạn đang xem: Vòng quay tài lộc ở làng phong đăng thường dùng những vật phẩm gì?

Chúng tôi đã công bố toàn văn báo cáo chính trị của Tập Cận Bình tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 12 và báo cáo đánh giá nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội 5 năm (2011-2015) và 5 năm hoàn thành phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 2016 – 2020 Được đăng trên Tạp chí Nhân dân số đặc biệt. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Trung Quốc được tổ chức vào thời điểm có ý nghĩa quan trọng: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết đại hội đảng đề ra. “Đề cương xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (mới xây dựng năm 2011) và “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011-2020” sẽ được thực hiện trong 5 năm, Hiến pháp thực hiện trong 2 năm vào năm 2013, và Bộ Nội vụ sẽ được thực hiện trong 30 năm. Nhiệm vụ của hội nghị là tổng kết việc thực hiện các nghị quyết của Đại hội Đảng Tập Cận Bình (2011-2015); tổng kết 30 năm đổi mới; xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2016-2020; kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ thứ nhất của ông Tập; Đánh giá việc thực hiện Hiến pháp khóa thứ X; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Hội nghị được tổ chức trong bối cảnh tình hình thế giới trong khu vực đang thay đổi nhanh chóng và phức tạp, Trung Quốc phải đối mặt với nhiều vấn đề mới, thuận lợi và cơ hội đan xen với khó khăn, thách thức. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân đặt nhiều kỳ vọng vào Đảng sẽ có những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ, phù hợp, phát huy lợi thế, khắc phục mọi khó khăn, tiếp tục lãnh đạo đất nước phát triển vững mạnh, nhanh chóng. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn đảng, toàn quân và toàn quân trong 5 năm tới: tăng cường xây dựng đảng, chính quyền trong sạch, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân. dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng thời công cuộc chuyển mình; kiên quyết bảo vệ Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

i – Đánh giá chung và tổng kết kết quả thực hiện các Nghị quyết Đại hội XI (2011 – 2015) 30 năm đổi mới (1986 – 2016)

1. Đánh giá toàn diện kết quả thực hiện các nghị quyết Đại hội của Tập Cận Bình; nguyên nhân và kinh nghiệm

Trong 5 năm qua, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi, tình hình thế giới và khu vực diễn ra nhiều biến động phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm; khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các nước lớn các nước trong khu vực; các sự kiện phức tạp trong diễn biến Biển Hoa Đông … đã tác động xấu đến nước ta. Trong nước, ngay từ đầu, với tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu, những hạn chế, khuyết điểm cố hữu của nền kinh tế chưa được khắc phục, chưa khắc phục được những hạn chế, yếu kém của nền kinh tế. Về công tác lãnh đạo, quản lý, những vấn đề nổi cộm là lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống của nhân dân. Thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu hoành hành. Nhu cầu đảm bảo an sinh xã hội và lợi ích xã hội ngày càng cao. Đồng thời, trước những diễn biến mới của tình hình khu vực và quốc tế, chúng ta phải dành nguồn lực đáng kể để bảo vệ quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Trong bối cảnh đó, nhìn chung, sự nỗ lực phấn đấu của toàn đảng, toàn quân và toàn quân đã đạt được những kết quả quan trọng.

Nền kinh tế đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực không ngừng được mở rộng, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát; Tập trung đổi mới phương thức tăng trưởng, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược lớn, bước đầu đạt kết quả tích cực; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế. An sinh xã hội được quan tâm hơn, cơ bản bảo đảm, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Công tác bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu đã có những chuyển biến tích cực. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố; đấu tranh kiên cường bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Quan hệ ngoại giao và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả. vị thế và uy tín quốc tế của nước ta không ngừng được nâng cao. Lực lượng đại đoàn kết dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân tộc không ngừng lớn mạnh. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt được những kết quả quan trọng. Quan điểm, hệ thống nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, hiệu lực, hiệu quả không ngừng được nâng cao. Chương trình đã được thể chế hóa kịp thời (bổ sung năm 2011), Hiến pháp năm 2013 và một số luật, quy định được xây dựng và ban hành trong Đại hội 13. Những thành tựu nêu trên đã tạo tiền đề quan trọng để đất nước tôi tiếp tục phát triển nhanh và bền vững hơn trong thời kỳ mới.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những kết quả đạt được của 5 năm qua, trong đó quan trọng nhất là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Trung ương, Bộ Chính trị Trung ương, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp. Quốc gia. Các nghị quyết của Đại hội đồng Tập Cận Bình đã giải quyết kịp thời và hiệu quả nhiều vấn đề nổi cộm; cập nhật và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội và các cơ quan dân cử; những nỗ lực, sáng tạo của toàn quân và hội nhập quốc tế sâu rộng đã mang lại nhiều cơ hội và những điều kiện thuận lợi để xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, đổi mới không đồng thời và toàn diện. Một số mục tiêu kinh tế, xã hội chưa đạt như kế hoạch, nhiều mục tiêu, tiêu chuẩn của mục tiêu cơ bản xây dựng nước công nghiệp đến năm 2020 của nước ta chưa đạt được. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, nợ công tăng nhanh, nợ xấu giảm nhưng vẫn ở mức cao, sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước và chưa đạt mục tiêu đề ra, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Việc xây dựng hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển, cơ cấu nguồn nhân lực mất cân đối, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn là yếu tố cản trở sự phát triển. Việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế liên quan đến đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Nhiều hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế chậm được khắc phục. Việc quản lý và sử dụng tài nguyên, môi trường còn nhiều hạn chế. Đời sống của một số người dân, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội tiếp tục diễn biến phức tạp, đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng. Lực lượng dân chủ xã hội chủ nghĩa và đại đoàn kết toàn dân tộc chưa phát huy được hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương còn lỏng lẻo. Một số mặt của công tác xây dựng đảng, xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa dưới pháp quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội có chuyển biến chậm. Dự báo, hoạch định và lãnh đạo thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước và quản lý phát triển xã hội chưa đủ. Tồn tại hội nhập quốc tế chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.

Những hạn chế, khiếm khuyết trên có nguyên nhân khách quan do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; những diễn biến mới, rất phức tạp của tình hình thế giới và khu vực; căng thẳng nảy sinh do tranh chấp chủ quyền đối với Hoa Đông Biển; Sự chống phá của các thế lực thù địch. Tuy nhiên, yếu tố trực tiếp và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan: cuối kỳ x, nền kinh tế vẫn đang trên đà tăng dự báo, Đại hội Tập Cận Bình đã đề ra một số mục tiêu và nhiệm vụ Khá cao. Tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận chưa giải đáp kịp thời một số câu hỏi đặt ra trong quá trình đổi mới. Nhiều hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý, điều hành của một số cấp ủy, cơ quan, cán bộ, đảng viên các cấp ở địa phương đang từng bước được khắc phục. Tập trung thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, chưa chú trọng giải quyết vướng mắc và hỗ trợ; hướng dẫn thực hiện chủ trương phát triển của Tổng Bí thư Tập Cận Bình và quan điểm về kết hợp điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới phương thức tăng trưởng và chiến lược. đột phá, tạo thành khâu đột phá trong huy động mọi nguồn lực để thúc đẩy phát triển các cơ chế, chính sách. Năng lực dự báo còn hạn chế nên một số chủ trương, chính sách, giải pháp chưa phù hợp.

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết chung, tổng kết như sau:

1. Trước những khó khăn, thách thức trên đường đổi mới, phải hết sức coi trọng việc xây dựng đảng trong sạch, liêm chính, nâng cao năng lực lãnh đạo và hiệu lực chiến đấu của đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phải phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thuận, xã hội đồng thuận; tăng cường quan hệ mật thiết với nhân dân; có quyết tâm chính trị cao, có biện pháp thiết thực, mạnh mẽ, đồng bộ, kiên quyết phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; Chú trọng công tác tổ chức cán bộ và công tác kiểm tra, giám sát, tăng cường công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Trong nội bộ phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đồng thời, kiên quyết chống mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Thứ hai, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói đúng sự thật, bám sát thực tiễn đất nước và thế giới; đồng thời nắm bắt, dự báo những xu hướng mới, kịp thời phát hiện và điều chỉnh những chính sách nhất định, nhiệm vụ và chương trình. Phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, kiên quyết, kiên trì, sáng tạo chỉ đạo, tổ chức thực hiện thành công đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.

Thứ ba, gắn kết chặt chẽ và thực hiện đồng bộ, trong đó: lấy phát triển kinh tế, xã hội làm trung tâm; xây dựng đảng là then chốt; phát triển văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội; bảo vệ quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên.

Bốn là, bám sát việc thực hiện các mục tiêu lâu dài và các nhiệm vụ cơ bản, đồng thời tập trung nguồn lực để thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách trước mắt, xóa bỏ hoàn toàn những hạn chế, cạm bẫy, tạo đột phá, duy trì và đẩy nhanh tiến độ phát triển; tập trung ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội; phát huy các nguồn lực trong và ngoài nước đáp ứng nhu cầu xây dựng bảo vệ Tổ quốc.

Năm

trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, tích cực hội nhập quốc tế, lấy lợi ích dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ đất nước trong tình hình mới.

2. Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 – 2016)

Ba mươi năm đổi mới và mở cửa là một thời kỳ lịch sử quan trọng đối với sự phát triển của đất nước ta, đánh dấu sự trưởng thành của Đảng, đất nước và nhân dân ta về mọi mặt. Đổi mới có địa vị và ý nghĩa cách mạng, là một quá trình chuyển biến sâu sắc, toàn diện và triệt để, là sự nghiệp cách mạng vĩ đại.

Nhìn chung, hơn 30 năm đổi mới, mở cửa, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, để đất nước phát triển nhanh và bền vững vẫn còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, còn nhiều hạn chế, mắt xích yếu kém cần được tháo gỡ, khắc phục.

Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế phát triển khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành và phát triển. Chính trị xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được củng cố. Văn hóa – Xã hội có bước phát triển, diện mạo đất nước, đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Phát huy và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, Nhà nước pháp quyền và toàn bộ hệ thống chính trị được nâng cao. Sức mạnh dân tộc được nâng cao toàn diện; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Những thành tựu đó đã tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn và sáng tạo; con đường xã hội chủ nghĩa của nước ta phù hợp với điều kiện đất nước Việt Nam và các xu hướng phát triển trong lịch sử.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, chúng tôi còn nhiều hạn chế, thiếu sót:

Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đầy đủ, một số vướng mắc trong quá trình đổi mới chưa được định vị rõ ràng trong thực tiễn để làm cơ sở khoa học cho việc quy hoạch đường bộ. Chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước và pháp luật. Lý luận xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn một số vấn đề cần được tiếp tục khảo sát, làm rõ hơn qua thực tiễn và nghiên cứu lý luận.

Kinh tế phát triển thiếu bền vững và không cân đối với tiềm năng huy động, nhu cầu và nguồn lực thực tế. Trong 10 năm qua, kinh tế vĩ mô thường xuyên bất ổn, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả kinh tế, năng suất lao động xã hội và sức cạnh tranh còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhìn nhận đầy đủ và giải quyết hiệu quả, còn tiềm ẩn những yếu tố, nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Ở khía cạnh nào đó, ở một số khu vực, một số người dân chưa được hưởng một cách đầy đủ và công bằng thành quả của công cuộc chuyển đổi. Đổi mới chính trị không đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Việc đặt nền móng cho những gì về cơ bản sẽ trở thành một quốc gia công nghiệp hóa hiện đại đã không đạt được các mục tiêu đã nêu.

Bốn nguy cơ mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1994) của Đảng nêu ra vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đó là: tham nhũng, lãng phí, “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch dùng những thủ đoạn mới, nhất là việc lợi dụng báo chí để chống phá chúng ta. trên mạng Internet và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Cán bộ, đảng viên và nhân dân ít tin tưởng vào Đảng và chế độ.

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của toàn Đảng, toàn quân, toàn quân để khắc phục, tiếp tục lãnh đạo đất nước phát triển nhanh và bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu đã đạt được, những hạn chế, tồn tại, xin tóm tắt những điểm sau:

Thứ nhất, trong quá trình đổi mới, trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải chủ động đổi mới, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, ứng dụng phù hợp với kinh nghiệm quốc tế của Việt Nam.

Hai là, đổi mới phải luôn tuân thủ quan điểm “hướng về dân”, nghĩ vì dân, dựa vào dân, phát huy cao độ ý thức làm chủ, trách nhiệm, sức sáng tạo và nguồn lực của mọi người; phát huy sức mạnh của đoàn kết dân tộc.

Thứ ba, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vướng mắc trong thực tiễn. .

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; vững vàng độc lập tự chủ, tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp nâng cao sức mạnh dân tộc với sức mạnh dân tộc. của thời đại, xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ nghĩa xã hội trên Tổ quốc Việt Nam.

5. Cần không ngừng tự đổi mới, tự sửa để nâng cao năng lực lãnh đạo và hiệu lực chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực và phẩm chất. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và toàn bộ hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ gắn bó với nhân dân.

ii – Các Mục tiêu, Phát triển Chung của Phát triển Quốc gia trong 5 năm 2016-2020

1. Dự báo tình hình thế giới và đất nước trong những năm tới

Trên thế giới, sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp trong vài năm tới, nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chung. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy nhanh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, đặc biệt là giữa các cường quốc ngày càng gia tăng. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển đi tắt đón đầu trên nhiều lĩnh vực, đồng thời mang lại cơ hội và thách thức cho tất cả các quốc gia.

Tình hình chính trị và an ninh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến của các sự kiện rất phức tạp và khó lường; vi phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc và tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng, vv tiếp tục xảy ra, gây gay gắt về nhiều mặt.

Tình hình thế giới diễn biến theo xu hướng phát triển nhanh của đa cực, đa trung tâm. Các cường quốc điều chỉnh chiến lược, hợp tác, thỏa hiệp, cạnh tranh, đấu tranh, hạn chế tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới và khu vực. Trong quan hệ quốc tế ngày càng xuất hiện nhiều biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, độc đoán, thực dụng. Các thể chế đa phương phải đối mặt với những thách thức to lớn. Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước đang phát triển có quy mô vừa và nhỏ phải đối mặt với những cơ hội, khó khăn và thách thức to lớn trên con đường phát triển. Trong bối cảnh đó, việc tập hợp sức mạnh, liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước trên thế giới và trong khu vực vì lợi ích của mỗi nước còn rất phức tạp.

Các vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh đang phát triển một cách phức tạp. Cộng đồng quốc tế ngày càng phải đương đầu với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thức chiến tranh mới.

Nền kinh tế thế giới phục hồi chậm, còn nhiều khó khăn, thách thức và nhiều biến động khó lường. Các quốc gia ngày càng tham gia nhiều hơn vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Giá cả thế giới biến động, bất ổn tài chính, tiền tệ, nợ công tiếp tục tác động xấu đến nền kinh tế thế giới. Tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia và khu vực đang thay đổi. Hầu hết các nước trên thế giới đã điều chỉnh chiến lược, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cập nhật hệ thống kinh tế, sử dụng tiến bộ khoa học công nghệ để thúc đẩy phát triển. Sự cạnh tranh kinh tế, cạnh tranh thương mại, cạnh tranh nguồn lực, cạnh tranh thị trường, cạnh tranh công nghệ và cạnh tranh nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các quốc gia ngày càng trở nên gay gắt. Nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế và khu vực, các hiệp định kinh tế song phương và đa phương thế hệ mới đã xuất hiện.

Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế – chính trị – chiến lược ngày càng tăng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa nhiều cường quốc, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trong khu vực và trên Biển Hoa Đông tiếp tục diễn ra gay gắt và phức tạp. ASEAN đã trở thành một cộng đồng và tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực, thúc đẩy hợp tác và liên kết kinh tế, nhưng cũng còn nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài.

Ở trong nước, thế và lực, sức chung sức của cả nước, uy tín quốc tế ngày càng cao đã tạo tiền đề quan trọng cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm năm tới là thời điểm Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và hội nhập quốc tế trên phạm vi rộng hơn bao giờ hết. Nó đòi hỏi đảng, nhà nước và nhân dân phải nắm bắt thời cơ, vượt qua những thách thức lớn và nỗ lực trong quá trình hội nhập.

Nền kinh tế từng bước thoát đáy và lấy lại đà tăng trưởng, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc, nợ công tăng nhanh, nợ xấu tuy giảm nhưng vẫn ở mức cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp.

Bốn nguy cơ lớn được Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, nhất là nguy cơ nền kinh tế tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các cường quốc trên thế giới. Tình trạng thù địch với nước ta; một số cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, quan liêu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; người giàu, người nghèo, phân hóa xã hội ngày càng lớn Đạo đức xã hội ngày càng mở rộng đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, đối với đất nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn. Tình hình chính trị – xã hội một số lĩnh vực có thể còn mất ổn định.

Trong tình hình thế giới và trong nước, thuận lợi và thời cơ song song, khó khăn, thách thức đan xen; nhiều vấn đề mới, vấn đề mới lớn hơn, phức tạp hơn đặt ra đối với sự nghiệp trẻ hóa, phát triển đất nước và giữ vững độc lập dân tộc. , chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, càng khó đòi hỏi Đảng, cả nước và nhân dân phải kiên trung, kiên cường trong đấu tranh.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ tổng thể phát triển đất nước trong 5 năm tới

Kế thừa và phát huy những thành tựu đổi mới và bài học kinh nghiệm trong 30 năm qua, nhất là 5 năm qua, tiếp tục thực hiện có hiệu quả phương hướng, nhiệm vụ mà nghị quyết của Đảng đã xác định, đồng thời cập nhật mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp trên tất cả các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị. Không ngừng cập nhật ý kiến, hoàn thiện cơ chế, chính sách, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững. Nhận thức đúng và xử lý đúng đắn các nhân tố tạo thành sức mạnh tổng hợp của đổi mới và hội nhập: kết hợp hài hòa các lợi ích; phát huy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ là đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy nhân tố con người; vai trò khoa học và công nghệ; …

Xem thêm: Cấu hình Assassin’s Creed Odyssey

Mục tiêu tổng thể:

Tăng cường xây dựng phong cách đảng viên trong sạch, trung thực, nâng cao hiệu lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc chấn chỉnh, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp, phát triển theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, kiên quyết bảo vệ đảng, tổ quốc, nhân dân và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Duy trì hòa bình, ổn định và tích cực hội nhập vào các nước đang phát triển trên thế giới. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Sứ mệnh chung:

(1) Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, cập nhật mô hình tăng trưởng và điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, coi trọng xây dựng nông thôn mới Kết hợp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học và công nghệ trong các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu .

(2) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ cương, kỷ luật, công khai, minh bạch trong quản lý kinh tế, nâng cao năng lực quản lý quốc gia và năng lực quản trị doanh nghiệp.

(3) Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ; phát huy vai trò chủ đạo của chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ quốc gia trong đổi mới và phát triển đất nước.

(4) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, dân tộc Việt Nam phát triển toàn diện, thích ứng với yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bảo vệ vững chắc lý tưởng Tổ quốc. và xã hội.

(5) Thực hiện tốt công tác quản lý phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao phúc lợi xã hội; thực hiện chính sách người có công; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, chất lượng dân số và chất lượng cuộc sống của người dân; thực hiện chính sách thu nhập việc làm trong lĩnh vực lao động; tạo một môi trường sống lành mạnh, văn minh, An toàn.

(6) Phát triển, sử dụng và quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.

(7) Đấu tranh kiên quyết, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Tổ quốc, nhân dân và hệ thống xã hội chủ nghĩa; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, ổn định an ninh nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trọng tâm là hiện đại hóa một số ngành, nghề, quân chủng.

(8) Theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới và uy tín.

(9) Hoàn thiện và nâng cao nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ đất nước của nhân dân; không ngừng củng cố và nâng cao sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức của nhân dân.

(10) Tiếp tục hoàn thiện đất nước xã hội chủ nghĩa theo pháp quyền, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hệ thống hành chính, tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ , công chức, viên chức đủ tiêu chuẩn, năng lực đối với nhiệm vụ yêu cầu. Phát huy dân chủ, tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương; tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tệ nạn xã hội và tội phạm.

(11) Xây dựng phong cách đảng viên trong sạch, liêm chính, nâng cao năng lực lãnh đạo, nâng cao phẩm chất đội tiên phong của giai cấp công nhân, nâng cao hiệu lực chiến đấu, phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất của Đảng; phòng, chống tư tưởng chính trị sâu rộng, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” trong nội bộ và Suy thoái những biểu hiện “tự chuyển hóa”. Chấn chỉnh mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo đảm chính trị trong đảng; tăng cường và nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận của đảng bộ, công tác kiểm tra, giám sát và công tác vận động quần chúng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng.

(12) Tiếp tục nắm vững mối quan hệ chủ yếu: mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo quy luật thị trường và bảo đảm định hướng chủ nghĩa xã hội; quan hệ giữa phát triển sản xuất Lực lượng và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa Từng bước xác lập và hoàn thiện mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ – Tuân thủ và hội nhập quốc tế; Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, quản lý đất nước, nhân dân làm chủ đất nước; …

Số liệu chính:

a) Kinh tế học

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 6,5 – 7% / năm. Đến năm 2020, gdp bình quân đầu người khoảng 3200-3500 đô la Mỹ; công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP; tổng đầu tư bình quân toàn xã hội 5 năm khoảng 32-34% GDP; bội chi ngân sách quốc gia khoảng 4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (tfp) đóng góp khoảng 30 – 35% vào tăng trưởng; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5% / năm; tiêu hao năng lượng bình quân trên một đơn vị gdp giảm 1-1,5% / năm. Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 38-40%.

b) Về xã hội

Đến năm 2020, lực lượng lao động nông nghiệp chiếm khoảng 40% tổng lực lượng lao động xã hội, tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 65-70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ là 25%; tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là dưới 4%; có từ 9-10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh / vạn dân; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế trên 80% dân số; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,0-1,5% / năm.

c) Về môi trường

Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị và 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, 85% chất thải nguy hại và 95-100% chất thải y tế được xử lý; tỷ lệ che phủ rừng đạt 42 %.

iii – Đổi mới mô hình tăng trưởng, xây dựng cơ cấu kinh tế; thúc đẩy đổi mới, hiện đại hóa đất nước

1. Tình huống

Mô hình tăng trưởng đã chuyển từ tập trung ban đầu vào chiều rộng sang sự kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; các mô hình mới và cách thức hoạt động sáng tạo đã xuất hiện. Với việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là trên một số lĩnh vực then chốt, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện; bảo đảm chặt chẽ hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, tài nguyên và bảo vệ môi trường. sự phối hợp.

Hiệu quả đầu tư toàn xã hội và đầu tư công từng bước được cải thiện, tình trạng đa dạng hóa đầu tư bước đầu còn hạn chế. Hệ thống các tổ chức tài chính – tín dụng hết lần này đến lần khác được cơ cấu lại để hệ thống không bị sụp đổ, mất an toàn. Doanh nghiệp nhà nước đang điều chỉnh, cập nhật theo hướng tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chính, đẩy mạnh sở hữu vốn chủ sở hữu, thực hiện mô hình quản trị công ty hiện đại, nâng cao tính công khai, minh bạch và hiệu quả hoạt động. di chuyển.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiếp tục phát triển và đạt được những kết quả nhất định. Trình độ công nghệ sản xuất công nghiệp chuyển đổi theo hướng hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo trong giá trị sản lượng công nghiệp tăng dần, tỷ trọng công nghiệp khai khoáng giảm dần. Thương mại, dịch vụ tăng trưởng khá, cơ cấu hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn có nhiều chuyển biến, nông nghiệp phát triển toàn diện hơn theo hướng phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; ứng dụng khoa học công nghệ và trình độ cơ giới hóa được nâng cao; có nhiều tiến bộ trong xây dựng nông thôn mới. Quan tâm đến cơ cấu kinh tế vùng chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, các địa phương. Cơ cấu lực lượng lao động có chuyển biến tích cực, chất lượng nguồn nhân lực bước đầu được nâng cao. Đội ngũ doanh nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn nhưng đã có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước phát triển, quá trình đô thị hóa diễn ra khá nhanh. Hội nhập kinh tế quốc tế liên tục sâu rộng ở nhiều cấp độ sẽ giúp thúc đẩy tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao giá trị gia tăng kinh tế.

Có được những thành tựu trên chủ yếu là nhờ sự nỗ lực to lớn của nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về chuyển đổi phương thức phát triển và điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Theo tình hình mới, một số cơ chế, chính sách, chương trình đã được đưa ra để thực hiện Đại hội Tập Cận Bình và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương.

Tuy nhiên, phát triển kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào bề rộng, tăng trưởng kinh tế vẫn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp và ít tác động đến tri thức và khoa học, giáo dục và công nghệ. , và lao động có kỹ năng. Năng suất lao động tăng chậm, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (tfp) vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Chưa tận dụng được lợi thế so sánh và tận dụng các cam kết hội nhập quốc tế để nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững.

Nợ xấu đang giảm nhưng vẫn ở mức cao và nợ công đang tăng nhanh. Tình trạng đầu tư công dàn trải, thất thoát, lãng phí khó khắc phục. Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tổng thể đổi mới hệ thống kinh tế chưa đồng bộ, chưa thực sự gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, kết quả còn hạn chế. Việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm và chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Định hướng chiến lược quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp cơ bản và công nghiệp hỗ trợ chưa rõ ràng, hiệu quả thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội còn hạn chế, yếu kém, lạc hậu, thiếu tính kết nối. Đô thị phát triển thiếu đồng bộ, chất lượng thấp. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn liên quan đến xây dựng nông thôn mới còn chậm. Công nghiệp dịch vụ chất lượng cao phát triển chậm. Kinh tế biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. Phát triển nội vùng, liên vùng thiếu tính liên kết, phối hợp, không gian kinh tế còn bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Chất lượng nguồn nhân lực thấp, điều chỉnh cơ cấu lực lượng lao động không tương ứng với điều chỉnh cơ cấu sản xuất.

Những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do thiếu nhận thức, nhất là thiếu ý thức về đổi mới phương thức tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thể chế và tổ chức thực hiện còn chậm, thiếu hệ thống và đồng bộ. Chưa có bước đột phá trong xây dựng hệ thống huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Chưa xác định rõ các ngành, lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên phát triển của Chính sách công nghiệp quốc gia trong từng thời kỳ, thiếu sự liên kết chặt chẽ, đồng bộ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu chưa được hiểu đầy đủ và xử lý đúng mức. Chưa có điều kiện và cơ hội cần thiết để hội nhập quốc tế có hiệu quả, đôi khi một số công việc chưa liên quan chặt chẽ đến đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

2. Phương hướng, Sứ mệnh

Mô hình tăng trưởng đổi mới và hướng điều chỉnh cơ cấu

Mô hình tăng trưởng trong tương lai sẽ kết hợp hiệu quả giữa phát triển theo chiều rộng và chiều sâu. Trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới, sáng tạo và nâng cao chất lượng, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nguồn nhân lực, nâng cao lợi thế so sánh, chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững (đạt được các mục tiêu sau. Mục tiêu phát triển bền vững 2030 của Liên hợp quốc); điều phối các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, phối hợp phát triển kinh tế và bảo vệ quốc phòng an ninh trật tự, phối hợp giữa tăng trưởng kinh tế và xây dựng văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Đổi mới mô hình tăng trưởng, từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang dựa mạnh vào vốn đầu tư, xuất khẩu và phát triển thị trường trong nước. Phát huy vai trò quyết định của nội lực đồng thời thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; phát huy cao nhất vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài và khu vực sản xuất nông nghiệp.

Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và phát triển (r & amp; d), giới thiệu công nghệ mới; thực hiện các phương thức quản lý, hành chính hiện đại; khơi dậy tiềm năng con người, khuyến khích tinh thần khởi nghiệp trong mọi người , chủ động Phát huy lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị quốc gia, tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Tiếp tục đẩy mạnh điều chỉnh đồng bộ, toàn diện nền kinh tế và các ngành, lĩnh vực liên quan đến đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm: điều chỉnh cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; điều chỉnh cơ cấu thị trường tài chính, trọng tâm là ngân hàng thương mại. hệ thống và thể chế tài chính, Từng bước điều chỉnh ngân sách nhà nước; sắp xếp và giải quyết có hiệu quả vấn đề nợ xấu để bảo đảm an toàn nợ công; sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; chỉnh đốn nông nghiệp cơ cấu liên quan đến phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới theo hướng nâng cao giá trị gia tăng. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược lớn, nhất là trong hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phấn đấu xây dựng cơ bản nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại

Xác định hướng phát triển hệ thống tiêu chuẩn nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Chú ý đến các tiêu chuẩn phản ánh trình độ phát triển kinh tế (GDP bình quân đầu người, tỷ trọng giá trị gia tăng sản xuất, tỷ trọng nông nghiệp, tỷ lệ đô thị hóa, điện bình quân đầu người …); các tiêu chuẩn phản ánh trình độ xã hội. phát triển (chỉ số phát triển con người, tuổi thọ trung bình, thu nhập Chỉ số bất bình đẳng phân bố, số bác sĩ trên 10.000 dân, tỷ lệ đào tạo lực lượng lao động…); và các tiêu chí phản ánh mức độ phát triển môi trường (tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch, độ che phủ rừng, mức giảm phát thải khí nhà kính…).

Trong thời gian tới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chính; huy động và phân bổ có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển. Xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động hợp lý, phát huy lợi thế so sánh, có năng suất lao động và sức cạnh tranh cao, tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; văn minh công nghiệp thịnh hành trong sản xuất và đời sống xã hội; theo điều kiện của từng thời kỳ, nhanh và phát triển bền vững.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được chia thành ba bước: tạo tiền đề, điều kiện để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong 5 năm tới, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh và bền vững; phấn đấu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa càng sớm càng tốt.

Phát triển công nghiệp

Xây dựng ngành và thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn trung và dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn phát triển.

Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương, chính sách, xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, nâng cao hàm lượng công nghệ và tỷ trọng nội địa hóa sản phẩm, tập trung vào các ngành có cơ bản, lợi thế so sánh, có ý nghĩa chiến lược, nâng cao tính độc lập kinh tế để phát triển nhanh và bền vững. tự lực, tự cường, có khả năng tham gia sâu và hiệu quả vào mạng lưới sản xuất và phân phối toàn cầu.

Phát triển có chọn lọc một số ngành sản xuất, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, máy móc, điện tử, hóa chất, xây dựng và lắp đặt, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh; công nghiệp hỗ trợ; công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, sản xuất vật liệu mới; từng bước phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp bảo vệ môi trường, công nghiệp văn hóa. Tiếp tục phát triển hợp lý một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động.

Bố trí công nghiệp hợp lý hơn trên toàn lãnh thổ; nâng cao hiệu quả tại các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất; một số khu công nghiệp công nghệ cao sắp đi vào hoạt động.

Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn liên quan đến xây dựng nông thôn mới

Nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa số lượng lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng và thúc đẩy xuất khẩu.

Đẩy nhanh điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp sinh thái phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng hiện đại và phát triển bền vững, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin trên cơ sở Phát huy lợi thế so sánh và tổ chức, sắp xếp lại sản xuất, ứng dụng vào sản xuất, điều hành nông nghiệp, đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông thôn, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Về lâu dài, nâng cao thu nhập và mức sống của nông dân. Tập trung đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp trọng điểm. Có chính sách tích tụ, tập trung ruộng đất phù hợp để thu hút mạnh mẽ các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp. Từng bước hình thành khu liên hợp nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ công nghệ cao. Chuyển đổi hợp lý cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và đô thị hóa, nâng cao chất lượng dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển thành thị – nông thôn, tăng cường liên thông đô thị – nông thôn, thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của nông nghiệp và nông thôn với phát triển công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị. Phát huy vai trò của nông dân, kinh tế hộ gia đình; xác định vị trí nòng cốt của doanh nghiệp trong nông nghiệp, đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp quốc doanh. Phát triển các loại hình hợp tác xã kiểu mới và nhiều hình thức hợp tác, liên kết, hình thành các vùng nguyên liệu liên quan đến chế biến và tiêu thụ.

Phát triển khu vực kinh doanh

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn công nghiệp chế tạo và tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tập trung phát triển du lịch, vận tải biển, dịch vụ kỹ thuật dầu khí, hàng không, viễn thông, công nghệ thông tin và một số ngành dịch vụ có lợi thế, tri thức và công nghệ cao. Hiện đại hóa và mở rộng các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, logistics và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất, vận hành khác. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách giáo dục, đào tạo và giá dịch vụ y tế; phát triển giáo dục chất lượng cao – dịch vụ đào tạo, y tế, công nghệ, văn hóa, thông tin, thể thao và việc làm. Đã hình thành một số trung tâm du lịch dịch vụ tầm cỡ khu vực và quốc tế. Tích cực phát triển hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ trong nước và tham gia vào mạng lưới phân phối toàn cầu.

Phát triển kinh tế biển

Phát triển mạnh mẽ kinh tế biển, nâng cao tiềm lực kinh tế quốc dân, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Tập trung phát triển công nghiệp dầu khí, nghề cá và dịch vụ hậu cần nghề cá, kinh tế biển (kinh doanh dịch vụ cảng biển, sửa chữa và đóng mới tàu biển, vận tải biển), du lịch biển đảo. Xây dựng cơ chế đạt đột phá về tăng trưởng và điều chỉnh cơ cấu kinh tế biển, thu hút nhiều nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, giải quyết biến đổi khí hậu, phát triển bền vững tài nguyên biển và hải đảo. Tập trung đầu tư và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế ven biển.

Phát triển kinh tế vùng và liên vùng

Thống nhất và quản lý chiến lược và quy hoạch phát triển của toàn bộ nền kinh tế, vùng và khu vực. Phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, đồng thời ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực để hình thành sự phát triển có sức hấp dẫn và lan tỏa cho vùng này và vùng khác. Có chính sách hỗ trợ phát triển các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và hải đảo. Phát triển kinh tế lâm nghiệp. Đổi mới cơ chế phân cấp, phân quyền, làm rõ và tăng cường trách nhiệm của chính quyền trung ương và địa phương. Thực hiện quy hoạch vùng và các chính sách vùng; đẩy nhanh việc hình thành các cơ chế điều phối và phối hợp vùng, đồng thời làm rõ vai trò lãnh đạo vùng và phân chia trách nhiệm. Khắc phục tình trạng phân chia nền kinh tế theo địa giới hành chính hoặc đầu tư manh mún, trùng lắp. Xây dựng một số đặc khu kinh tế, xây dựng các cực tăng trưởng và thử nghiệm các thể chế phát triển khu vực mang tính đột phá.

Phát triển Đô thị

Đổi mới cơ chế, chính sách nhằm kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị phù hợp với quy hoạch, kế hoạch tổng thể. Từng bước hình thành hệ thống đô thị trong đó nhiều đô thị lớn, nhiều đô thị vừa và nhỏ liên kết, phân bố hợp lý giữa các vùng, kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường. Chú trọng xây dựng các đô thị miền núi, phát triển mạnh các đô thị ven biển. Nâng cao chất lượng, tính thống nhất và sức cạnh tranh của các đô thị; chú trọng nâng cao vai trò và giá trị đặc trưng của các đô thị, đô thị di sản, đô thị sinh thái, đô thị du lịch, đô thị khoa học phục vụ phát triển kinh tế cả nước và vùng.

Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội

Đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, tiếp tục tập trung vào việc hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội

  • Da Blackrock có thể nhận được từ những nhiệm vụ nào?
  • Nâng cấp vũ khí hổ phách lên loại nào sau đây? Vũ khí Meteorite Amber sẽ được nâng cấp lên loại nào sau đây?
  • Phụ lục nào sau đây có chế độ nâng cao?
  • Soul of the Sword hiện có bao nhiêu chủng tộc?