Người ta thường nói về 18 vị vua anh hùng khai quốc công thần. So với số năm cầm quyền vào năm 2622 và 18 đời, số năm cầm quyền trung bình là khoảng 145 năm, điều này khiến chúng ta không khỏi nghi ngờ về tuổi thọ thực sự của vị vua anh hùng. Trước những con số tưởng chừng như vô lý này, có rất nhiều ý kiến và giả thiết khác nhau.
hung vuong là tên của thủ lĩnh tối cao của nhà nước Vunlang, vẫn được gọi là vị vua anh hùng. Theo truyền thuyết, những vị vua này là hậu duệ của Zilongquan và au co.
hung vuong là tên của thủ lĩnh tối cao của Văn Lang.
Có nhiều ý kiến xung quanh vấn đề này. Theo ghi chép của “Dongqiu Dazhi”, đời thứ 18 của vua Hồng: 2879-258 trước Công nguyên. Theo nhiều tài liệu lịch sử hiện nay, theo các tài liệu khai quật được và “Lịch sử của Dayue”, đời thứ mười tám của Hongwang: khoảng 688-208 trước Công nguyên.
Theo “Su Ji Quan Tu of Dayue”, giai đoạn từ thời vua Cảnh Dương (2879 trước Công nguyên) đến cuối đời vua Hồng (258 trước Công nguyên) kéo dài 2622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại cho đến năm 258 trước Công nguyên, khi nó bị thôn tính bởi thực phần. Theo Nguyễn Kết trong The Generation of Kings of Vietnam, 18 vị vua anh hùng là:
Jingyang King (Vua Jingyang): 2879-2794 TCN (số năm trị vì là ước tính). Biểu tượng là Lu Xu.
Vua Xiongxian, còn được gọi là Luo Longjun (Luolongjun hoặc Luolongjun hoặc Raccoon Dragon): 2793-2525 trước Công nguyên. huy là Chongyun.
Vua Xionglin: 2524-2253 TCN
Vua Hengye (Vua Xiongye): 2252 – 1913 bc
hưng hi vương (p 王 王): 1912 – 1713 bc (phần bên trái chữ “hi” là tập hợp gia súc “ngưu”)
hung hui vuong (王辉 王): 1712 – 1632 b.c.
Wang Zhao Wang (Xiong Zhao Wang): 1631-1432 trước Công nguyên
King Xiongwei (Vua Xiongwei): 1431 – 1332 bc
hung ding vuong (Vua Hùng Đinh): 1331 – 1252 b.c.
hung hi vu (王 西 王): 1251 – 1162 bc (bên trái chữ “hi” là bộ ngày “ngày”)
hung trinh vuong (Hung Ching King): 1161 – 1055 bc
Vua Xiongwu: 1054-969 TCN
Vua của Xiongyue: 968-854 trước Công nguyên
Vị vua của các anh hùng: 853 – 755 bc
vuong trieu vuong (vua Xong): 754-661 BC
Nhà vua làm vua: 660-569 trước Công nguyên
Vua Xiong Yi: 568-409 TCN
Vua Hongrui (Vua Xiongrui): 408-258 TCN
Tuy nhiên, ngày nay, qua các bằng chứng, hầu hết các sử gia đều tin rằng câu chuyện về Vua Hồng thứ 18 là không có thật. Con số 18 chỉ mang ý nghĩa tượng trưng và mang tính quy ước vì 18 là bội số của 9 – một con số thiêng liêng đối với người Việt Nam.
Những con số này khó thuyết phục nếu người ta cho rằng 2.622 năm trị vì mà chỉ có 18 vị vua; trong khi những ghi chép như vậy nhằm “nêu rõ truyền thống dân tộc”, các nhà sử học tỏ ra nghi ngờ.
Nhà sử học ngô nghê, nên nhà thơ đã viết trong cuốn “Lịch sử những vụ án giết người ở Việt Nam”: “Làm sao người ta có thể sống lâu nếu không có một hòn đá? Điều này càng không thể hiểu nổi”.
Cũng trong cuốn Lịch sử Việt Nam, nhà sử học Trần Văn Kim viết: “… nếu tính theo phép toán thì mỗi vị vua trị vì trên dưới 150 năm. Ngay cả người xưa, nhiều người cũng khó sống lâu như vậy.”
Các nhà nghiên cứu cho rằng Vương quốc Văn Lang của các vị vua anh hùng chỉ tồn tại trong khoảng 300-400 năm, với niên đại kết thúc khoảng 208 TCN chứ không phải 258 TCN.
Sách “Lịch sử Dayue”, bộ sử lâu đời nhất còn lưu giữ ở nước tôi, chép rằng: “Vào thời nhà Chu (696-681 TCN), có người lạ dùng phép thuật để thực hiện phép thuật. Tỉnh Ninh. Vua của Với thuần phong mỹ tục, ông ấy biết cách sử dụng các nút thắt. Ông ấy đã truyền qua mười tám đời và được gọi là vua của sức mạnh. “
Không rõ tác giả viết gì trong “History of Dayues”, nhưng đưa ra thời điểm Fan Langguo được hình thành là khoảng thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, tương ứng với thời Đông Sơn. Với kết quả nghiên cứu hiện tại, và số lượng 18 vị vua Anh trị vì trong khoảng 300-400 năm, nó được nhiều người chấp nhận hơn, mặc dù không thể xác định liệu có thực sự có 18 vị vua Anh ở Fan Langguo hay không. Không.
Chỉ có 18 vị vua trị vì trong 2622 năm, điều này gây ra nhiều nghi vấn, tuy nhiên, trong gia phả bằng ngọc bích, chẳng hạn như “Huangwang Jade Genealogy” được viết vào năm thiên phúc (980) đời ông Li Dahan của nhà Lý trước đây. Triều đại (le hoan) không phải 18 vị vua anh dũng, mà là 18 nhánh / nhánh với tổng số 180 vị vua:
“Tám trong mười thiên vương đã chết, Taibao là tỷ phú, nhất trong mười tám thiên vương, vạn nhất thiên vương”
có nghĩa là:
“Mười tám Ngọc nữ và Dabao Ấn của Vương triều Valiant, khoảng 180 đời, nhường ngôi cho hoàng đế, người cai trị các làng mạc và đất nước xa xôi”.
Trong gia phả của Hongwangyu, chữ “Ming” phải được hiểu là chữ “ben” trong chữ Hán, có nghĩa không phải là đời người, mà là “được truyền từ đời này sang đời khác”. Hiện nay còn lưu giữ bài vị “Tam quốc chí” lưu giữ 3 vị vua cuối cùng đời thứ 18 / Zhi / Hong Wangzhi tại xã Tài Đăng, huyện Ba Ngụy, thành phố Hà Nội.
Như vậy con số 18 không phải là 18 vị vua anh hùng mà là 18 nhánh, mỗi nhánh chứa nhiều vị vua cùng tên, khi hoàn thành nhánh mới được đặt một danh hiệu mới. Ngoài ra, thời gian trị vì và tuổi thọ của vua có thể hiểu là tuổi của nhiều vua và số năm trị vì của nhiều vua của một nhánh nên thời gian trị vì vượt quá 2622 năm. Không có cái gì gọi là hoang đường. Chính vì vậy mới có câu:
Sơ khai về huu kinh dương của miền Nam Việt Nam,
Sự thống nhất của núi và sông và Tám vị vua.
Hệ thống Tiandao cổ đại,
Năm hương, năm nhớ.
có nghĩa là:
Bắt đầu với thời kỳ Dương
Mười tám vương, mười tám chương.
Mãi mãi Bạch Qua Núi và Sông
Nến vĩnh cửu có mùi thơm.
Truyện cổ tích xã vi cư (phú thọ) ghi chép rõ ràng các đời vua và các tư liệu liên quan, theo ghi chép, mỗi chi 18 đời vua có 180 vị vua: “Theo 18 chi thì vua. của Hồng ở trong Thời kỳ trị vì của mình, Ngài đã truyền ngôi Dabao cho 180 đời hoàng đế, Tôn Anh về một nhiệm kỳ và lập 122 cung điện.Tổng số năm kế vị của 18 vị thánh vương là 2622 năm, cuộc đời hưởng thọ 8678 tuổi, sinh 986. Các cụ, các ông, bà chúa sinh được 14.378 chắt, chắt chiu thiên hạ. Biển là góc trời, vạn năm không bao giờ hết. .
Tượng của Mười tám vị vua.
1. Zhi Can: kinh duong vuong, huy loc tuc, tức là luc luc vuong, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 TCN) và lên ngôi ở tuổi 41. Không biết đã truyền bao nhiêu đời vua. . 2879 TCN) đến Dinghai (2794 TCN) so với Tam Hoàng của Trung Quốc (?).
2. Zhi khảm: Lạc long quân, huy hoàng, tức là hưng hiền vương, sinh năm Bình Thành (2825 trước Công nguyên), lên ngôi năm 33 tuổi, vua của các triều đại đều không rõ. Chi này trị vì trong 269 năm, từ năm thứ nhất của Thái Lan (2793 TCN) đến năm Hán Việt (2525 TCN), và được gọi là Vua Hongxian. Ngang hàng với Trung Quốc (ngũ đế) về thời đại của Con Trời.
3. Chi Càn: Vua Hồng, Hui Honglan, sinh năm Canh Ngọ (2570 TCN), lên ngôi năm mười tám tuổi, không biết đã truyền bao nhiêu đời vua, họ đều tự xưng là Vua Hồng, và họ trị vì trong tất cả 272 năm, bắt đầu từ năm Định Tự (2524 TCN) đến năm 2253 TCN. So sánh nó với Trung Quốc thời Shun, đồ ngốc.
4. Địa chi: hùng hòa vỹ, huyễn lang, ngày sinh không rõ, lên ngôi năm Định Hải (2252 trước Công nguyên), không biết có bao nhiêu đời vua, gọi là hung hoa vương, trị vì 342 năm, kể từ năm Đinh Hợi (2254) BC) năm) đến năm Quý Hợi (1913 TCN). Ngang hàng với Trung Quốc thời hoàng đế.
5. Nguyên tác: Vua Hong Hyuk, Hye Po Lang, sinh năm thứ nhất (2030 TCN), lên ngôi năm 59 tuổi. Không rõ đã lưu truyền bao nhiêu đời vua, tất cả đều xưng là tất cả 200 năm trị vì của vua Hồng Tây, từ năm đầu công nguyên (1912 TCN) đến tháng thứ nhất (1713 TCN). Ngang hàng với Trung Quốc trong thời kỳ tinh hoa của nhà Hạ.
6. chi ly: Vua hùng biện, huy long tiên lang, sinh năm dậu (1740 TCN), lên ngôi năm 29 tuổi, kế vị 2 đời vua, trị vì 81 năm, xưng là vua hùng biện, từ năm Kỷ Sửu (1712 TCN năm Quý Sửu)) đến năm Quý Dậu (1632 TCN). Ngang hàng với -c Trung Quốc vào thời nhà Đinh.
7. Chí tôn: Vua Hồng Chiêu, Hui Guolang, sinh năm ghen tuất (1768 TCN), lên ngôi năm 18 tuổi, lệnh cho 5 vị vua gọi là vua Hồng Chiêu, trị vì 200 năm, kể từ năm Kỷ. Con chó (1631). TCN) đến năm Jiji (1432 TCN). Trong nhà tổ tiên bệnh viện ngang hàng với Trung Quốc.
8. chi doai: Xuanwang huy van lang, sinh ra o Ningjin (1469 BC), ke tu khi 39 tuoi, 5 đời vua, moi goi la vua Hongwei, truot 100 nam, tu nam (1431 BC). ) đến năm Quý Dậu (1332 TCN). Ngang hàng với Trung Quốc tại bệnh viện Nan’s.
9. Giáp cốt: Vua Hongding, huyễn nhân lang, sinh năm Bình Dương (1375 TCN), lên ngôi năm 45 tuổi, truyền 3 đời vua tự xưng là Vua Hongding, trị vì 80 năm từ 1331 đến 1252 TCN. Có thể so sánh với Trung Quốc thời nhà Âm, nơi giáp ranh của tổ tiên.
10. chi at – hưng uy vuong, huy hoàng long lang, 3 đời, 90 tuổi, từ 1251 đến 1162)
11. Zhiping: hung trinh vuong, huy hung duc lang, sinh nam tuan (1211 tr. CN), lên ngôi năm 51 tuổi, trải qua 4 đời vua, đều gọi là hung trinh vương, trị vì từ năm Nhâm Dần (107 năm sau Công Nguyên từ 1161 trước Công Nguyên) đến năm Kỷ Hợi (1055 trước Công Nguyên). Ngang hàng với Trung Quốc thời Tây Chu đế quốc.
12. Zhiding: Vua Hongwu, huy đức hiền lang, sinh năm Bình Định (1105 TCN), lên ngôi năm 52 tuổi, truyền ba đời vua tự xưng là Vua Hongwu, và trị vì từ năm Đinh Hợi (1105 sau Công nguyên). 86 năm từ 1054 trước Công nguyên) đến năm Mậu Tuất (969 trước Công nguyên). Ngang hàng với Tây Chu Trung Quốc.
13. Zhishang: Vua Hongyue, Hui Tuanlang, sinh năm Kỷ Hợi (982 TCN), lên ngôi năm 23 tuổi, 5 đời trước đều gọi là Vua Hongyue, trị vì 115 năm , từ năm Kỷ Hợi (968 TCN) đến cuối Đinh (854 TCN). Ngang hàng với Tây Chu Trung Quốc.
14. Chi ky: King of Heroes, huyen vien lang, sinh ra o Dingmao Nian (894 BC), ngai vàng khi 42 tuoi va duoc biet den la mot anh hung trong 4 doi tuong. Ngang hàng với Trung Quốc thời bình Đông Chu.
15. chi canh: hung triệu vuong, huy canh cuu lang, sinh năm ngưu (748 tr.CN), lên ngôi năm 35 tuổi, truyền ba đời vua tự xưng là hung triệu vường, trị vì thiên hạ. trong 94 năm, bắt đầu từ năm Kỷ Hợi (748 TCN) 754. TCN) đến năm Nhâm Thân (661 TCN). Ngang hàng với Trung Quốc vào thời nhà Huệ của nhà Đông Chu
16. Chitan: Vua Hồng Đào (Thần xã Thiên La, huyện Nhạc An, tỉnh Hà Bắc, đời thứ 16 ghi là vua Hồng Đào, đóng quân ở Yueyue, có tướng lĩnh, đánh tan mọi rợ, phong vua là Đại vuong – ‘Anh hùng in the Village ‘Cao Xuanting (Xuất bản) People 1969 trang 126-130), huy đức quan lang, sinh năm Giáp Tý (712 TCN), 3 đời vua, lên ngôi 92 năm, kể từ năm dậu. (660 TCN) đến niên hiệu Ninh Tấn (569 TCN) ngang hàng với Trung Quốc vào thời đại vua Lĩnh nhà Đông Chu
17. Chi nhâm: hưng nghia vường, huy bảo quang lang, sinh năm dậu (576 trước công nguyên) và lên ngôi năm 9 tuổi. Bốn vị vua được cho là hùng mạnh và trị vì trong 160 năm. Năm Giáp Thân (568 bc) đến năm Canh Thân (409 bc). Ngang hàng với Trung Quốc Đông Chu hùng mạnh
18. Gia đình quý tộc: Vua Hồng Duệ, sinh năm Giáp Thân (421 TCN), lên ngôi năm 14 tuổi, vì ở xã Tai Deng có một số vị vua không rõ tên tuổi (có lẽ là 3 đời). , Huyện Ba Vì – Hà Nội Có tấm bia “Tam quốc chí” trị vì 150 năm từ năm Đinh Dậu (408 TCN) đến năm Quý Mão (258 TCN). Nó tương đương với 17 năm của vị vua hùng mạnh và 56 năm noãn của nhà Đông Chu ở Trung Quốc.
Vì vậy, dòng họ Hồng Bàng trị vì đất nước Sở Lăng, được gọi là Hồng vương, không chỉ có 18 đời (18 đời vua), mà còn có 18 chi, mỗi chi có nhiều đời vua. Một số người còn cho rằng con số 18 chỉ mang ý nghĩa tượng trưng vì nó là bội số của 9 – một con số thiêng liêng đối với người Việt Nam. Điều này giải thích hợp lý sự tồn tại của Thời đại các vị vua kéo dài gần 2622 năm.
duc dung / Văn hóa Việt Nam