Khi xã hội ngày càng phát triển và hiện đại hóa thì vấn đề đầu tư cho giáo dục cũng ngày càng được các ngành học và các quốc gia quan tâm hơn. Bởi quan niệm đầu tư vào giáo dục là đầu tư cho tương lai, và quan trọng hơn là đầu tư cho sự phát triển của đất nước. Đó là lý do tại sao ngày nay, cha mẹ cho trẻ tiếp xúc với môi trường giáo dục ngay từ khi còn nhỏ, để trẻ dần thích nghi với đám đông, giao tiếp và chấp nhận các hoạt động, dần dần tiếp thu kiến thức từ giáo dục mầm non.
Do đó, các nhà lập pháp đã đưa giáo dục mầm non vào hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành. Khi nói đến trường mầm non, nó luôn có nghĩa là trẻ em dưới 6 tuổi.
Tư vấn Pháp luật Trực tuyến Tổng đài Miễn phí: 1900.6568
Cơ sở pháp lý: Đạo luật Giáo dục 2019
1. Giáo dục Mầm non là gì?
Trước khi đi sâu vào các câu hỏi về nội dung mầm non hoặc mẫu giáo và phương pháp giáo dục mầm non. Điều gì liên quan đến giáo dục mầm non trong Phần 1? Giáo dục là gì?
Do đó, theo quan điểm pháp lý, sư phạm được định nghĩa là khoa học dùng để giáo dục con người – có nhiệm vụ chỉ rõ bản chất và quy luật của quá trình giáo dục. Xác định mục tiêu giáo dục; quy định nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục trẻ em ở các ngành học khác nhau nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong điều kiện và xã hội nhất định.
Ngoài các khái niệm giáo dục chung nêu trên, pháp luật hiện hành xác định giáo dục mầm non là một nghề giáo dục có nhiệm vụ thiết lập tổ chức lý luận và khoa học của quá trình giáo dục trẻ 0 tuổi. – 6 tuổi (trước khi vào cấp 3).
Dựa trên cơ sở khoa học của quy luật chung về giáo dục, kết hợp với những đặc điểm cụ thể của sự phát triển tâm sinh lý của trẻ để hình thành và phát triển nhân cách của trẻ ở lứa tuổi này, nhiệm vụ của giáo dục mầm non là nghiên cứu và xác định bàn thắng. , quy định nội dung, phương pháp, hình thức hướng dẫn, tổ chức giáo dục trẻ trong độ tuổi đến trường một cách khoa học, đạt hiệu quả giáo dục. Tốt nhất cho trẻ mẫu giáo.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, đối tượng của giáo dục ngày nay là con người. Như chúng ta đã biết, con người cũng là đối tượng của nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Trong số đó, giáo dục mầm non được biết đến là nơi con người được định hướng một cách có ý thức ngay từ khi còn nhỏ. Đồng thời, đây còn được coi là nơi nghiên cứu bản chất của quá trình giáo dục, quá trình hình thành con người có mục đích, có kế hoạch, hoạt động tự nguyện tác động đến việc hình thành nhân cách của trẻ. Giáo dục hoặc cơ sở giáo dục.
2. Nội dung và phương pháp giáo dục mầm non:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, nội dung giáo dục mầm non được biết đến và các quy định phải phù hợp với sự phát triển khả năng hấp thụ của trẻ em đối với các nội dung liên quan đến giáo dục ngay từ khi còn nhỏ. Do đó, Luật Giáo dục mầm non lần này quy định nội dung giáo dục mầm non tại Điều 24 (1) Luật Giáo dục năm 2019 như sau:
Xem Thêm: Kích thước Tiêu chuẩn, Tiêu chuẩn Mầm non
“1. Nội dung giáo dục mầm non phải phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ; kết hợp hài hòa giữa bảo vệ, chăm sóc, nuôi dạy trẻ với giáo dục; phát triển toàn diện các kỹ năng về thể chất, tình cảm, xã hội, trí tuệ và thẩm mỹ; tôn trọng sự khác biệt; liên quan đến giáo dục tiểu học “.
Có thể thấy, qua các quy định vừa nêu, nội dung giáo dục rất quan trọng đối với giáo dục mầm non. Vì tâm sinh lý trẻ nhỏ chưa đủ ý thức để hiểu hết nội dung phức tạp của vấn đề giáo dục. Đối với trẻ em, nội dung giáo dục thường thiên về hình ảnh và âm thanh, đặc biệt là các hoạt động mà trẻ có thể học từ giáo viên mầm non. Bởi vì, đối với cấp học của trẻ em, khác với các cấp học khác, nội dung giáo dục của mỗi lứa tuổi là khác nhau. Vì ở bậc học này, học sinh thường là trẻ nhỏ và chưa thể nhận thức được hành vi, hoạt động và lời nói của giáo viên nên việc quản lý nội dung giáo dục là vô cùng quan trọng đối với đối tượng này.
Giáo dục mầm non được biết đến với các đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu. Khi tác giả nghiên cứu giáo dục mầm non với tư cách là chuyên ngành sư phạm, cần sử dụng toàn diện các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, đồng thời xuất phát từ đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, khoản 2 Điều 24 Quy định về phương pháp giáo dục mầm non. quy định. Đạo luật Giáo dục quy định một số phương pháp sau:
“a) Giáo dục mẫu giáo phải tạo điều kiện cho phép trẻ em hoạt động, vui chơi và xây dựng mối quan hệ giữa người lớn và trẻ em; kích thích sự phát triển giác quan, tình cảm và tâm sinh lý;
b) Giáo dục mẫu giáo cần tạo điều kiện cho trẻ vui chơi, trải nghiệm, khám phá, tìm hiểu môi trường xung quanh bằng nhiều hình thức khác nhau để đáp ứng nhu cầu và sở thích của trẻ. “
Có thể thấy, từ các quy định trên, việc cung cấp cho trẻ em phương pháp học tập hợp lý để thực hiện các hoạt động giáo dục là vô cùng quan trọng. Từ những quy định về phương pháp vừa nêu, có thể hiểu cụ thể những điều này để hiểu rõ và đưa ra phương pháp giáo dục tối ưu cho trẻ mầm non. Trong đó:
Trước hết, phương pháp thực hành, trải nghiệm được coi là một trong những phương pháp hữu ích, giúp ích rất nhiều trong việc kích thích sự phát triển trí não của trẻ trong tư duy nhận thức ban đầu. Tuyên bố ban đầu của đứa trẻ không hề gây hiểu lầm. Trong đó, phương pháp này bao gồm: phương pháp thực hành thao tác với đồ vật và đồ chơi, phương pháp sử dụng trò chơi, phương pháp đặt tình huống có vấn đề, phương pháp luyện tập. Mỗi phương pháp được hiểu là:
– Phương pháp thực hành thao tác với đồ vật, đồ chơi: trẻ sử dụng và phối hợp các giác quan, hoạt động (cầm, nắm), sờ, mở và đóng, xếp chồng, xếp cạnh nhau, xâu chuỗi đồ vật, đồ chơi theo hướng dẫn của giáo viên. , …) để phát triển các giác quan và thực hành các thao tác trí óc.
Xem thêm: Các biện pháp trừng phạt đối với trường mẫu giáo không được cấp phép
– Phương pháp sử dụng trò chơi: Sử dụng trò chơi với các yếu tố chơi thích hợp để kích thích sự sẵn sàng và hứng thú của trẻ trong các hoạt động tích cực để giải quyết các nhiệm vụ nhận thức và giáo dục.
– Phương pháp trình bày tình huống có vấn đề: Đưa ra những tình huống cụ thể kích thích trẻ tìm tòi, tư duy thông qua trải nghiệm để giải quyết vấn đề.
– Phương pháp luyện tập: Trẻ thực hành nhiều lần các hành động, lời nói, cử chỉ, điệu bộ theo yêu cầu của giáo viên để củng cố lại kiến thức, kỹ năng đã học.
Thứ hai, phương pháp trực quan – minh họa hay một phương pháp đơn giản và dễ hiểu hơn là việc giáo viên mầm non quan sát, làm mẫu, vẽ sơ đồ. Cho trẻ quan sát, tham gia và giao tiếp với các đồ vật và phương tiện (đồ vật, đồ chơi, tranh ảnh); hành động mẫu; hình ảnh tự nhiên, mô hình, sơ đồ và phương tiện nghe nhìn (phim, đài, máy ghi âm, điện thoại, máy tính) thông qua việc sử dụng kết hợp của các giác quan và lời nói Tăng cường hiểu biết và phát triển tư duy và ngôn ngữ của trẻ.
Thứ ba, phương thức dùng từ. Ai cũng biết rằng, phương pháp mà pháp luật quy định là giáo viên sử dụng các phương tiện lời nói (đối thoại, đối thoại, kể chuyện, giải thích) để truyền đạt và giúp trẻ tiếp thu thông tin, kích thích trẻ suy nghĩ, chia sẻ ý kiến, bộc lộ cảm xúc và nhớ lại các hình ảnh và sự kiện bằng lời nói. Lời nói và câu hỏi của giáo viên phải ngắn gọn, cụ thể và phù hợp với kinh nghiệm sống của trẻ.
Thứ tư, phương pháp giáo dục yêu thương, động viên được gọi là dùng cử chỉ kết hợp với lời nói thích hợp để khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động của trẻ nhằm khơi gợi niềm vui, tạo niềm tin và khuyến khích sự cố gắng của trẻ trong quá trình học tập. Hoạt động.
Cuối cùng là phương pháp đánh giá mô hình. Trong số đó, hãy nêu gương: sử dụng đúng hình thức khen ngợi và phê bình, đúng nơi, đúng lúc. Khen ngợi trẻ là chìa khóa, nhưng không được lạm dụng. Đánh giá còn được gọi là biểu hiện đồng ý hoặc không đồng ý của người lớn và bạn bè về hành vi, cách cư xử và tư thế của trẻ. Sau đó nhận xét, tự phê bình, trong từng hoàn cảnh, tình huống cụ thể. Không sử dụng