Cho đến ngày nay, văn học hiện thực phê phán vẫn là một cái tên gây tranh cãi. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam chịu ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân, kèm theo đó là nạn bóc lột cường quyền, bạo tàn khiến nhân dân khốn đốn. Các nhà văn đã ghi lại hiện thực cuộc sống bằng những ngòi bút chân thực, trở thành một trào lưu lớn trong đời sống văn học lúc bấy giờ.
Khái niệm văn học hiện thực phê phán
Văn học hiện thực phê phán là một trong những tên gọi gây ra nhiều những tranh cãi cho đến ngày nay. Trong từ điển văn học do Trần Đình Sử làm chủ biên soạn, đã đưa ra 2 cách hiểu về thuật ngữ này.
Nói một cách khái quát, chủ nghĩa hiện thực được hiểu là những tác phẩm liên quan đến cuộc sống thực, bất kể chúng thuộc thể loại hay xu hướng nghệ thuật nào. Theo nghĩa này, quan niệm văn học hiện thực đồng nhất với quan niệm chân lý ở đời, vì văn học nào cũng mang hiện thực.
Theo nghĩa hẹp, đây chỉ là một phương pháp hiện thực, một trào lưu, một trào lưu văn học có nội dung chặt chẽ, sắc sảo và được xác định theo những nguyên tắc thẩm mỹ riêng.
Theo cuốn sách Lý thuyết văn học , chủ nghĩa hiện thực đôi khi không được sử dụng như một phương pháp sáng tác, mà theo một nghĩa nào đó, nó là một sự biểu diễn.
Theo bách khoa toàn thư, chủ nghĩa hiện thực, còn được gọi là văn học hiện thực phê phán, là một trào lưu văn học hiện thực và là một trong những phương pháp sáng tác chính. bản thân con người với tư cách là đối tượng phản ánh.
Vì vậy, khái niệm văn học hiện thực phê phán đã được đưa ra nhiều cách hiểu theo các quan điểm khác nhau về chủ nghĩa hiện thực, nhưng tựu chung lại đó là một trào lưu văn học, một phương thức sáng tác. Mô tả thế giới thực và đánh giá cuộc sống một cách trung thực. Đồng thời, nếu phương pháp này thành công, tác giả phải tuân thủ nghiêm ngặt một số cái gọi là mỹ học, chẳng hạn như:
- Tạo hình ảnh tiêu biểu và điển hình hóa các sự kiện trong cuộc sống;
- Nhận ra mối quan hệ giữa tính cách của nhân vật với môi trường, con người và cuộc sống môi trường;
- Chú ý đến Độ chi tiết và độ chính xác cao.
Sự ra đời của văn học hiện thực phê phán
Có nhiều tài liệu gây tranh cãi về thời điểm chủ nghĩa hiện thực ra đời. Theo cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” đã nêu nhiều luận điểm về sự ra đời của văn học hiện thực. Một số người cho rằng vấn đề phản hiện thực được hình thành từ thời cổ đại, trải qua nhiều giai đoạn phát triển như thời cổ đại, thời kỳ Phục hưng, thời kỳ ánh sáng, thế kỷ thứ X … Một số khác lại cho rằng sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực. văn học bắt đầu với sự phục hưng. Nhiều quan điểm khác khẳng định chủ nghĩa hiện thực được hình thành từ những năm 1930.
Theo bách khoa toàn thư, các tác phẩm thuộc chủ nghĩa hiện thực hoặc có giá trị hiện thực đã xuất hiện rất lâu trước chủ nghĩa hiện thực. Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện thực chỉ là một trào lưu, và một phương pháp hoàn hảo không thực sự xuất hiện cho đến thế kỷ XX ở một số nước đế quốc như Anh, Pháp, Nga thì văn học hiện thực phê phán mới dần lan rộng ra thế giới.
Ở Việt Nam, đã có nhiều tác phẩm văn học trung đại thuộc dòng văn học hiện thực phê phán, như: Tiểu sử Hoa kiều, Truyền tụng của Thanh Phủ, Thơ văn của Nguyễn Khuyến, Thơ của Ngài Huyền Tường, v.v., đã vạch trần và phê phán chủ nghĩa hiện thực. cuộc sống tại thời điểm đó. Cho đến những năm 1930, nhà phê bình văn học Ruan Gonghuan là một trong những người đầu tiên đi theo khuynh hướng tả thực, lấy cuộc sống hiện tại mà lấy con người và sự vật.
Trong giai đoạn 1930-1945, xu hướng văn học hiện thực phê phán phát triển với quy mô và nhiệt tình lớn, và nhiều nhà văn tài năng đã xuất hiện trong phong trào này như Wu Zhongfeng, Wu Toto, Ruan Dingli, … Và các nam văn sĩ Huấn Cao được coi là một trong những người đã đẩy văn học hiện thực phê phán lên một tầm cao mới, tầm miêu tả tâm lí, khái quát hiện thực.
Văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945
Với bối cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933. Thực dân Pháp lúc này ra sức vơ vét, bóc lột để bù đắp những thiệt hại của chúng.
Ngày 9 tháng 2 năm 1930, cách mạng tư sản thất bại, một mặt giai cấp tư sản mâu thuẫn với chế độ phong kiến, đường lối chính trị lúc này chủ yếu là cải cách. Giai cấp tư sản dân tộc, chủ yếu là địa chủ, thay đổi thành kiến với thái độ chống phong kiến thời bấy giờ là điều chưa chắc chắn. Trí thức và tầng lớp tiểu tư sản gộp lại với nhau, thỏa hiệp với thực dân, số còn lại hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc bằng con đường văn học, vào thời điểm văn học hiện thực phê phán trở thành một phong trào.
Sự phát triển của văn học hiện thực phê phán 1930-1945
- Hành trình từ năm 1930 đến năm 1935
Ở giai đoạn này, văn học hiện thực chỉ trích các tác phẩm của Ruan Gonghuan, tập truyện của anh ấy “Double Private Durable”; phóng sự của anh ấy “Trapped People” và “Technology to the West”, …
Tác phẩm thể hiện tinh thần phê phán sự bất công, vô nhân đạo của xã hội thời bấy giờ. Đồng thời cũng bày tỏ sự thương cảm, xót xa đối với những giai cấp bị áp bức trong xã hội bấy giờ.
- Hành trình từ năm 1936 đến năm 1939
Do hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ, sự phát triển của văn học hiện thực phê phán có nhiều thay đổi, đồng thời cũng xuất hiện nhiều mặt thuận lợi. Các tác gia văn học như Wu Zhongfeng, Ruan Gonghuan và Wu Datu đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và lần lượt tạo ra nhiều tác phẩm xuất sắc.
Hàng loạt tác phẩm của tác giả tập trung phê phán, lên án mạnh mẽ chính sách áp bức, bóc lột, lừa lọc, lừa đảo của chế độ, đồng thời vạch trần nỗi thống khổ, niềm thương cảm của người dân.
- Từ năm 1940 đến năm 1945
Ở giai đoạn này, văn học hiện thực phê phán vẫn chiếm ưu thế, và các tác phẩm nổi tiếng của nam chính Huấn Cao cũng nổi bật với những nét đặc sắc.
<3Vì vậy, có thể nói, văn học hiện thực phê phán Việt Nam đã trải qua ba giai đoạn phát triển chia đều từ năm 1930 đến năm 1945, và đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong giai đoạn cuối.
Những thành tựu đáng chú ý trong văn học hiện thực phê phán 1930-1945
Những nhân vật lớn đã đóng góp vào sự phát triển của văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn này như nguyễn công hoan, ngo tất tả, vũ trong phung, nguyễn hồng, nam cao … tác phẩm của họ là bức tranh toàn cảnh về xã hội đen tối ở lúc đó.
Sự phê phán và suy ngẫm về cuộc đời của người mẹ trong chế độ cai trị được thể hiện mạnh mẽ trong các tác phẩm như: Bước đường cùng, Xác chết, dao chém, chí phèo, tắt đèn, lão hạc, …
Bức tranh xã hội lúc bấy giờ đã được khắc họa chân thực bằng văn học hiện thực phê phán. Nó ảm đạm, có nhiều vở tuồng, làng xóm điêu tàn và nhiều tệ nạn xã hội. Nông dân bị bọn cường hào ác bá đẩy đến cùng cực, dẫn đến mất nhân tính và trở thành ác quỷ của xã hội.
Phong trào phương Tây hóa về sự thịnh vượng, thanh niên và cải cách quần áo do thực dân khởi xướng đã ngày càng tiết lộ sự thật và tạo ra nhiều nghịch cảnh được phản ánh trong các tác phẩm kỹ thuật số màu đỏ. xa lạ.
Nhiều tác phẩm tác động mạnh đến tâm lý nhân vật để phản ánh hiện thực xã hội, ví dụ: sống xa, đời thừa, chí phèo, …
Truyện ngắn của nguyen cong hoan mang tính chất mỉa mai và xúc phạm sâu sắc, ví dụ: Đất có ma, hồn thể dục, …
Cảm hứng bi tráng, đồng cảm với nỗi khổ của người nông dân Việt Nam thời bấy giờ cũng được coi là một trong những cảm hứng chủ đạo cho văn học hiện thực phê phán. Những sai lầm của cảm hứng và sự cảm thông tràn ngập tác phẩm của nhà văn ngo tot tots. Ngoài ra, còn có nhiều tác phẩm nổi tiếng thời bấy giờ phê phán, lên án chế độ thực dân, phong kiến và bọn tà đạo.
Văn học hiện thực phê phán những năm 1930-1945 được coi là một trào lưu dọc theo những khó khăn và hỗn loạn của xã hội. Nhưng dù xã hội có thay đổi như thế nào thì những nét chữ, những trang viết vẫn sẽ trường tồn cùng thời gian.