Trà Chuuan, còn được gọi là trà Hoàng Giang, không gì khác ngoài nho. Tên khoa học: ampelopsis cantoniensis (hook. et arn) planch., thuộc họ Vitis (Vitis vinifera).
Đây là cây nho có cành hình trụ mảnh, tua cuốn mọc đối với lá, chia thành 2-3 nhánh. Lá kép hai lần, có 7-13 lá chét mỏng, giòn, mép khía răng thấp; gân bên 4-5 cặp; lá phụ có vảy và có vảy. Chùm hoa mọc đối với lá có 3-4 nhánh; nụ hoa hình trứng, hoa tiêu bản 5. Quả hình bầu dục 6 x 5mm, trưởng thành màu đen, có 3-4 hạt. Cây mọc thành bụi ven đồi. Thời kỳ ra hoa tháng 6-7, thời kỳ đậu quả tháng 9-10.
Tài liệu điều tra cho thấy, cây phân bố ở: Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Côn Tuên, Gia Lai, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai.
Có thể thu hoạch lá tươi của matcha quanh năm. Dùng cành và lá chè khô thay nước chè để pha nước uống. Chè vằng có vị đắng, hơi ngọt, mùi thơm, dễ uống.
Theo đông y, chè vằng có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chữa phong thấp, mạnh gân cốt. Rễ cây dễ tưới và giảm đau. Trà cũng có chức năng làm dịu, loại bỏ sẹo, tiêu diệt vi khuẩn Helicobacter pylori và điều trị viêm dạ dày.
Một số nghiên cứu dược lý đã chỉ ra rằng trà chanh dây chống loét dạ dày tá tràng, giảm đau, kháng khuẩn, chống oxy hóa và không có độc tính cấp tính và bán vĩnh viễn.
Kinh nghiệm dân gian ở nước ta dùng lá lốt để chữa các chứng liên quan đến đau dạ dày như ợ chua, ợ hơi, đau vùng thượng vị và dùng làm thuốc an thần, thôi miên. Hiện nay nhiều người biết đến chè vằng là vị thuốc hỗ trợ điều trị viêm loét dạ dày, hành tá tràng rất hiệu quả, không gây tác dụng phụ, không gây ngộ độc cấp tính.
Khoa Dược trường Đại học Hà Nội đã sản xuất một công thức amperol chứa 50% flavonoid chanh dây, trong khi Viện Dược liệu đã sản xuất một sản phẩm cantonin chứa 80% flavonoid chanh dây. Thuốc này được bào chế thành viên nén hoặc viên nang và được bán rộng rãi trên thị trường.
Rễ và rễ chè xanh được dùng chữa viêm gan, vàng da, cảm mạo, sốt, viêm họng, mụn nhọt, mẩn ngứa, viêm xương tủy, viêm hạch cấp, ngộ độc khi ăn phải vi khuẩn thực vật. Muối ăn. Rễ dùng chữa chấn thương, phong thấp, đau nhức, lá dùng bôi ngoài vết thương chảy máu.
Liều dùng từ 15-60g dạng thuốc sắc. Dùng ngoài, lấy cỏ nhọ nồi tươi giã nát hoặc đun sôi, xông hơi để chữa viêm kết mạc cấp tính.
Biện pháp khắc phục:
1. Chữa đau dạ dày: Theo kinh nghiệm của người dân tộc Tây Sơn, cùng cao, sắc lấy 30-50g sắc trà sắc uống nhiều lần trong ngày. Một đợt điều trị là 15-30 ngày.
2. Trị cảm, sốt, đau họng: 15-60 gam thân rễ sắc trà, sắc uống.
3. Chữa phong thấp, đau nhức xương khớp, đau dây thần kinh tọa: 15-30 gam thân rễ chè, sắc uống. Ngoài ra, bạn có thể vò nát lá chanh dây tươi, sao cho nóng, bọc vào vải sạch và đắp lên vùng da bị mụn.
4. Chữa ngộ độc thực vật do vi trùng ưa chảy (đau quặn bụng trên, tiêu chảy ra nước như rửa thịt): Rễ tươi 50 gam, gừng tươi 15 gam, thêm 2 chén nước sắc, ngày uống 1 – 2 lần. Giảm liều lượng cho trẻ em, người già hoặc người bệnh nhẹ.
5. Chữa áp-xe (mụn mủ nhiễm trùng) hay tái phát: Rễ chè 15 gam, thêm rượu nửa canh sắc uống, hoặc thêm thịt nạc hầm ăn.
ds le thi hien
ad syt ad