Bổ trợ tư pháp là gì? Vai trò và danh sách các tổ chức bổ trợ tư pháp?

Bổ trợ tư pháp là gì

Trong chiến lược cải cách tư pháp được Đảng ta và đất nước ta thường xuyên đề cập trong giai đoạn hiện nay, câu hỏi thường xuyên được nghe đến là nâng cao chất lượng hoạt động bổ trợ tư pháp.

Cơ sở pháp lý:

– Luật sư tại Văn phòng Luật sư 2006;

– Đạo luật công chứng năm 2014;

– Đạo luật đấu giá tài sản năm 2016;

– Luật Giám định tư pháp 2012 được sửa đổi, bổ sung năm 2020;

– Đạo luật Trọng tài Thương mại 2010;

– Nghị định số 110/2013 / nĐ-cp quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản công ty, hợp tác xã, v.v.;

– Nghị định số 22/2013 / nĐ-cp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp;

Luật sư Tư vấn pháp luật qua tổng đài trực tuyến 24/7: 1900.6568

Xem thêm: Khu phi thuế quan là gì? Danh sách các khu phi thuế quan ở Việt Nam?

1. Tương trợ tư pháp là gì?

Tương trợ tư pháp về cơ bản là hoạt động song song trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bằng cách cung cấp tài liệu, chứng cứ và phản bác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tư pháp được tiến hành suôn sẻ, nhanh chóng và chính xác, đồng thời giúp mọi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

Bổ trợ tư pháp liên quan mật thiết đến hoạt động tư pháp và mang bản chất tư pháp, nhưng không nên nhầm lẫn với hoạt động tư pháp mang quyền lực nhà nước.

Trước đây ở Việt Nam chúng ta thường sử dụng thuật ngữ “Tương trợ tư pháp”, nhưng với sự phát triển của xã hội, thuật ngữ “Tương trợ tư pháp” đã được sử dụng thay thế do được sử dụng rộng rãi hơn.

Hiện tại, không có văn bản pháp luật cụ thể nào để hoàn thiện và giải thích cụ thể khái niệm “Tương trợ tư pháp”. Tuy nhiên, theo Điều 1 khoản 1 điểm a Nghị định số 110/2013 / nĐ-cp thì tương trợ tư pháp bao gồm: luật sư, cố vấn pháp luật, công chứng viên, giám định viên tư pháp, đấu giá tài sản, trọng tài thương mại.

Bổ sung tư pháp bằng tiếng Anh: “Judgement Supplement”.

2. Vai trò của trợ lý tư pháp:

Dù chỉ đóng vai trò phụ trợ nhưng chắc chắn hoạt động phụ trợ, nổi bật trong số đó có thể kể đến luật sư, công chứng viên, giám định viên tư pháp, những người đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống. Tố tụng chung và pháp lý, đặc biệt là xét xử. Nếu hoạt động bổ trợ tư pháp được triển khai nghiêm túc, hiệu quả sẽ góp phần nâng cao chất lượng nền tư pháp Việt Nam, giảm bớt nhiều áp lực công việc cho các cơ quan nhà nước.

Theo quy định tại Điều 2, Điều 20 Nghị định số 22/2013 / nĐ-cp ngày 13 tháng 3 năm 2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, dịch vụ pháp lý bao gồm luật sư, pháp lý cố vấn, công chứng Nhân dân, giám định viên tư pháp, đấu giá tài sản, trọng tài thương mại. Từ góc độ xét xử đến hoạt động tố tụng, tương trợ tư pháp được hiểu đơn giản là những hoạt động do các tổ chức tương trợ tư pháp thực hiện nhằm giúp cơ quan điều tra, tố tụng, cơ quan tư pháp thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan tư pháp. các bữa tiệc. Công dân và Tổ chức.

Cách hiểu trên là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa theo pháp quyền, do nhân dân làm chủ, nhân dân làm chủ và vì nhân dân; càng phát huy và khẳng định vai trò của hoạt động tương trợ tư pháp. Với việc Tòa án là trung tâm của cải cách tư pháp, tương trợ tư pháp liên quan trực tiếp và ảnh hưởng đến chất lượng xét xử của Tòa án, là công cụ hỗ trợ không thể thiếu cho người dân và các cơ quan tố tụng trong hoạt động tố tụng. pháp luật.

Xem thêm: Danh sách nhân viên của công ty, bảng phân công và thông tin lao động mẫu

3. Tổ chức trợ giúp pháp lý được thành lập theo quy định của pháp luật:

3.1. Tổ chức Luật sư:

Luật sư là người tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề do pháp luật quy định và cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng). Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, thể chế, tổ chức, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội. Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

Các dịch vụ pháp lý dành cho luật sư sẽ bao gồm: tham gia tố tụng, tư vấn pháp lý, cung cấp dịch vụ đại diện ngoài tòa án cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác.

Về loại hình hành nghề luật sư, mỗi luật sư có thể chọn hành nghề trong một công ty luật hoặc với tư cách cá nhân.

Các tổ chức liên quan đến công ty luật sẽ bao gồm: công ty luật hoặc công ty luật (công ty luật hoặc công ty luật trách nhiệm hữu hạn).

Hiện nay, trong thời đại kinh tế thị trường, nhu cầu sử dụng dịch vụ của luật sư ngày càng cao, đảng và nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đã tạo điều kiện thuận lợi cho nghề luật sư ngày nay. Được mở rộng trong khi vẫn duy trì chất lượng.

3.2. Công chứng viên:

Công chứng là hành vi chứng thực bằng văn bản tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác, tính chính xác, hợp pháp, trái đạo đức của công chứng viên trong cơ quan công chứng. Việc dịch các văn bản, tài liệu từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt phải được công chứng theo quy định của pháp luật hoặc do cá nhân, tổ chức tự nguyện công chứng.

Người thực hiện việc công chứng được gọi là công chứng viên. Người này tuân thủ luật công chứng và do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Công chứng viên sau khi được bổ nhiệm sẽ tham gia cung cấp các dịch vụ công do Nhà nước quy định, bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên trong hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và xã hội. -phát triển kinh tế.

Cơ quan hành nghề về công chứng sẽ bao gồm: Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. Văn phòng công chứng do Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định thành lập, Văn phòng công chứng do các công chứng viên dự định đăng ký theo mô hình tổ chức hợp danh thành lập.

Xem thêm: Thông tin trong danh sách ngắn trong các đấu thầu hạn chế

Liên quan đến hoạt động công chứng, nhiều khách hàng của Yang Jiafa đã hiểu sai về hoạt động chứng nhận. Đôi khi khách hàng có thói quen đến UBND nơi cư trú để thực hiện hoạt động chứng thực các loại giấy tờ như sổ hộ khẩu, bằng khen, các loại giấy tờ tùy thân mà nói là “ra văn phòng công chứng”. Về cơ bản, sai lầm khi nói rằng hai hoạt động có sự khác biệt đáng kể về độ phức tạp thực hiện.

Để có bằng chứng, khách hàng thực hiện việc này sẽ nhận được chứng chỉ rằng bản sao giống hệt bản gốc về mặt hình ảnh. Các bản sao có tác dụng tương tự như bản gốc và có thể được sử dụng thay cho bản gốc, trừ khi phải nộp bản chính. Đối với công chứng viên, sự kiện này là về tính hợp pháp của các văn bản, hợp đồng, v.v.

Chủ thể của hoạt động công chứng sẽ dành nhiều thời gian hơn hoạt động chứng thực để đảm bảo mọi nội dung của văn bản, hợp đồng phù hợp với mong muốn của các bên và tuân thủ pháp luật. Nói một cách đơn giản nhất, xác thực là để “chính xác” và công chứng là để “hợp pháp”.

3.3. Tổ chức bán đấu giá tài sản:

Đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản trong đó có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục quy định tại luật này, trừ trường hợp đấu giá chỉ có một người đăng ký. Người tham gia đấu giá, người trả giá, người trả giá.

Người thực hiện cuộc đấu giá được gọi là đấu giá viên. Đấu giá viên được thực tập tại trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, tổ chức do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng.

Về tổ chức đấu giá tài sản, cụ thể là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản do UBND tỉnh thành lập, doanh nghiệp đấu giá tài sản do các thành viên quan tâm đăng ký và được thành lập dưới hình thức sở hữu độc quyền hoặc liên danh.

3.4. Tổ chức giám định tư pháp:

Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến ​​thức, phương tiện, khoa học, công nghệ, phương pháp nghiệp vụ để đưa ra kết luận chuyên môn về các vấn đề liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành bản án hình sự, giải quyết việc dân sự và các vụ án hành chính. Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành tố tụng có thẩm quyền. Yêu cầu của người đã trưng cầu giám định theo Luật giám định tư pháp.

Người hành nghề nhận dạng pháp y được gọi là người hành nghề nhận dạng pháp y và nơi làm việc của họ là một tổ chức nhận dạng pháp y hoặc được giao nhiệm vụ cá nhân để đánh giá việc nhận dạng pháp y tùy theo trường hợp.

Xem thêm: Các bước để xác định danh sách rút gọn trong giá thầu hạn chế

Đối với các tổ chức nghề nghiệp tư pháp, luật chia thành tổ chức công lập và tổ chức ngoài công lập, cụ thể:

– Tổ chức nghề nghiệp tư pháp công do các cơ quan quốc gia có thẩm quyền thành lập trong lĩnh vực pháp y, tâm thần pháp y và công nghệ hình sự. Trong trường hợp cần thiết, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Giám đốc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét quyết định thành lập hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền thành lập tổ chức giám định tư pháp công lập trong các lĩnh vực sau đây: Các lĩnh vực khác sau khi lấy ý kiến ​​của nhân dân cấp tỉnh. các ủy ban. Bộ Trưởng Tư Pháp. Cụ thể, dựa trên chuyên môn, các tổ chức công bao gồm:

Pháp y: Viện Pháp y Quốc gia thuộc Bộ Y tế; Trung tâm Pháp y tỉnh; Viện Nghiên cứu Pháp y Quân đội thuộc Bộ Quốc phòng;

Pháp y tâm thần: Viện Pháp y tâm thần Trung ương thuộc Bộ Y tế; Trung tâm Pháp y tâm thần khu vực thuộc Bộ Y tế. Căn cứ yêu cầu của việc giám định pháp y tâm thần phục vụ tố tụng và tình hình thực tế các vùng miền trên cả nước, Bộ trưởng Bộ Y tế sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ xem xét quyết định thành lập Trung tâm pháp y tâm thần khu vực.

Về Kỹ thuật Hình sự: Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an; Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh; Phòng Giám định Kỹ thuật Hình sự Bộ Quốc phòng.

– Các tổ chức chứng thực tư pháp ngoài công lập được gọi là tổ chức chứng thực tư pháp, được thành lập trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật, di tích văn hóa, bản quyền, v.v.

3.5. Trọng tài thương mại:

Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại.

Những người hành nghề trong lĩnh vực này được gọi là trọng tài viên và họ làm việc trong các trung tâm trọng tài. Chức năng của Trung tâm trọng tài là tổ chức và điều phối, điều hòa hoạt động giải quyết tranh chấp của trọng tài, hỗ trợ trọng tài viên về hành chính và văn phòng trong quá trình giải quyết tranh chấp của trọng tài.

Xem thêm: Mẫu danh sách hành khách theo hợp đồng mới và tiêu chuẩn nhất

Ví dụ về một số trung tâm trọng tài tại Việt Nam: Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (viac), Trung tâm Trọng tài Thương mại Miền Nam (stac), Trung tâm Trọng tài Thương mại Châu Á (acac) …

Trọng tài là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến ở nhiều quốc gia do tính bảo mật thông tin và thời gian giải quyết nhanh hơn so với phương thức tòa án. Tuy nhiên, ở Việt Nam, cách làm này vẫn chưa thực sự được coi trọng, do pháp luật hiện hành chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của trọng tài, khi vẫn dựa vào Tòa án (các biện pháp khẩn cấp tạm thời, v.v.) và lệ phí thường phải các trường hợp Trọng tài trả tiền cũng cao hơn một chút.