đặc điểm chung của quan niệm duy vật về vật chất ở

đặc điểm chung của quan niệm duy vật về vật chất ở

Xu hướng chung của các nhà triết học duy vật cổ đại là tìm kiếm một loại thực thể nguyên thủy nào đó và coi đó là nhân tố tạo ra tất cả các sự vật và hiện tượng khác nhau trên thế giới, từ đó mọi thứ bắt nguồn và cuối cùng biến mất trong đó.

p>

Vậy những đặc điểm chung của quan điểm duy vật cổ đại về vật chất là gì? Quý khách hàng quan tâm vui lòng chú ý theo dõi các bài viết sau.

Có chuyện gì vậy?

Vật chất theo định nghĩa của vladimir ilyich lenin có trước. Vật chất là thứ tồn tại khách quan bên ngoài ý thức. Nó không phụ thuộc vào ý thức. Nó là thứ quyết định ý thức; là thứ phản ứng với vật chất; Mối quan hệ biện chứng.

Các phạm trù vật chất đã nằm dưới chế độ nô lệ kể từ thời kỳ đầu của triết học cổ đại. Tuy nhiên, nội dung của thể loại này không đặt trong khuôn khổ, nó không ngừng thay đổi và phát triển.

Sự ra đời của khái niệm vật chất đặt nền tảng cho ý thức và phương pháp của thế giới quan khoa học hiện đại; nó giúp giải thích mọi sự vận động, biến đổi của hình thái vật chất của xã hội và hoạt động thực tế của con người.

Đặc điểm chung của chủ nghĩa duy vật cổ đại

Xu hướng chung của các nhà triết học duy vật cổ đại là tìm kiếm một loại thực thể nguyên thủy nào đó, và coi đó là nhân tố tạo ra tất cả các sự vật và hiện tượng khác nhau trên thế giới, từ nơi chúng bắt nguồn và cuối cùng hòa tan vào chúng.

Tức là, họ muốn tìm một thực thể chung làm nền tảng bất biến của mọi tồn tại, tồn tại trong mọi vật ngay cả khi trạng thái và thuộc tính của chúng thay đổi, gọi là vật chất. (Tiếng Latinh là materia).

Trong lịch sử triết học cổ đại, các nhà triết học duy vật cũng nhìn nhận vật chất rất khác. Thales (624-547 TCN) cho rằng vật chất là nước, Anaximenes (585-524 TCN) cho rằng vật chất là không khí, Heraclitus (540-480 TCN) cho rằng vật chất là lửa, Democritus (460-480 TCN) coi vật chất là nguyên tử .. .

Khái quát chung Đặc điểm chung của quan điểm duy vật cổ đại về vật chất là các nhà triết học cổ đại tưởng tượng vật chất dưới dạng cảm giác và giảm vật chất thành hiện thực. cụ thể, cố định.

Bất chấp những hạn chế về lịch sử, quan niệm trên có ý nghĩa tích cực trong việc chống lại chủ nghĩa duy tâm vào thời điểm đó.

Vào thời hiện đại, khoa học đã khám phá ra sự tồn tại của nguyên tử, và khái niệm lý thuyết nguyên tử về cấu trúc của vật chất ngày càng được khẳng định. Trong suốt thế kỷ 17 và 18, mặc dù có những bước phát triển, xuất hiện một tư tưởng biện chứng nào đó trong khái niệm vật chất, nhưng quan niệm đó ở các nhà triết học duy vật thời kỳ đó vẫn mang tính chất cơ giới, tức là có xu hướng xác định. vật chất bằng nguyên tử hoặc khối lượng.

Khái niệm này bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi cơ học Newton cổ điển, một lĩnh vực vật lý được coi là phát triển nhất vào thời điểm đó.

Cơ học cổ điển tin rằng khối lượng của một vật thể là đặc tính cơ bản và bất biến của vật chất; thế giới bao gồm các vật thể có kích thước khác nhau, vật nhỏ nhất không thể phân chia được là nguyên tử;

Đặc trưng cơ bản của mọi vật thể là khối lượng; tính tất yếu khách quan trong thực tế là tính tất yếu khách quan được biểu thị bằng các định luật cơ học của Newton; vật chất, chuyển động, không gian và thời gian là những thực thể khác nhau cùng tồn tại, nhưng không có mối quan hệ nội tại với nhau.

Khái niệm này tồn tại và được các nhà triết học duy vật lỗi lạc và các nhà khoa học tự nhiên sử dụng cho đến cuối thế kỷ 19.

Karl Marx và Friedrich Engels đặt vấn đề về sự đối lập giữa vật chất và ý thức, về tính thống nhất vật chất của thế giới, về tính phổ biến của các phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất ở các dạng cụ thể. Có thể.

Theo Ph.Ăngghen, cần phân biệt giữa hình thức tồn tại khách quan của vật chất và khái niệm vật chất. Vật chất, với tư cách là một phạm trù triết học, không tồn tại tri giác, ngoại trừ những đối tượng vật chất cụ thể.

Theo quan điểm của ông, “những từ như vật chất và chuyển động chỉ là một bản tóm tắt, chúng tôi kết hợp nhiều thứ khác nhau theo thuộc tính của chúng, có thể nhận thức được thông qua các giác quan”.

p>

Engels đặc biệt nhấn mạnh sự chỉ trích của ông về ý tưởng giảm vật chất thành nguyên tử, thành các hạt nhỏ đồng nhất có khối lượng hoàn toàn giống nhau, nhưng số lượng khác nhau, mà ông coi là siêu hình và cơ học. Vô cực và vô cùng, sự bất tử và bất tử của vật chất và dạng tồn tại của nó, không gian và thời gian.

Ở đây, cần phân biệt khái niệm vật chất như một phạm trù triết học với khái niệm vật lý và các khoa học vật lý khác. Lê-nin đã định nghĩa các chất:

“… vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được con người ban cho các giác quan, được các giác quan tái tạo, chụp ảnh, phản ánh và tồn tại độc lập với các giác quan “. p>

Vật chất tồn tại như thế nào?

Cách vật chất tồn tại là chuyển động. Chuyển động là bất kỳ sự thay đổi nào nói chung, “là thuộc tính vốn có của vật chất”, “là cách vật chất tồn tại”, “là sự tự vận động của vật chất”.

Có năm dạng chuyển động cơ bản: chuyển động cơ học, chuyển động vật lý, chuyển động hóa học, chuyển động sinh học và chuyển động xã hội. Mối quan hệ giữa các hình thức vận động: mức độ vận động khác nhau, vận động cao trên cơ sở vận động thấp, mỗi sự vật có nhiều hình thức vận động khác nhau. Chuyển động là tuyệt đối, đứng yên là tương đối.