Điểm danh những danh nhân tuổi Dần lẫy lừng lịch sử Việt Nam | Phong cách | Vietnam (VietnamPlus)

Những người tuổi dần thành đạt

Video Những người tuổi dần thành đạt

Có nhiều ý kiến ​​khác nhau về tử vi và vận mệnh của những người sinh năm Dần, nhưng không thể phủ nhận rằng có rất nhiều tài năng đang tuổi dần.

Theo tử vi, những người tuổi Dần (lớn tuổi) thường dũng cảm, thích mạo hiểm và luôn kiên định với quan điểm của mình. Con hổ tượng trưng cho quyền lực, sự độc lập và tự chủ. Người tuổi dần tài trí hơn người, luôn mang trong mình một ước mơ cao cả, dám nghĩ dám làm. Dù gặp chuyện không vui, họ cũng không đành lòng và tin rằng “mưa rồi sẽ qua”.

Hãy cùng điểm qua những danh nhân đã có nhiều đóng góp cho công cuộc vực dậy dân tộc Việt Nam.

Vua Tongtong của Thái Lan (1218-1277)

Chen Taitang sinh vào âm lịch, là đệ nhất thiên vương, tên thật là Trần Bảo, đổi tên là Trần Căn. Ông cũng là một nhà nghiên cứu Phật học và nhà thơ.

Quê hương của trần thái tông mặc hương, che trời che nắng (nay là Milo, Nanding). Ông lên ngôi năm 7 tuổi (1225), trị vì 32 năm, lên ngôi hoàng đế được 19 năm, sau đó truyền ngôi cho con trai là Thái tử Chen Pan (sau này là vua Chen Qingtong). / p>

Ông đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam chống lại cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Mông Cổ. Với chiến công hiển hách được ghi vào sử sách, vua Chen Taitang đã trở thành một vị vua sáng suốt. Ông cũng được lịch sử Phật giáo tôn vinh là thiền sư.

Qua đời năm 1277 ở tuổi 59, Chen Taidong đã để lại cho đời nhiều tác phẩm như “Khóa Thánh”, “Nan Chan”, “Thánh ăn năn” …

Thái sư tran thu do (1194-1264)

Trần thủ do sinh ra tại hoàng đạo Trung Quốc, tên là Trần, quê quán Thái Bình. Ông là người nhạy bén, mưu lược, giỏi ứng biến và mưu lược, giúp triều đình dẹp loạn, ngày 10 tháng 1 năm 1226, ông truyền lệnh cho vua Lý Chiêu Hoàng thoái vị cho Trần Cảnh, lập ra trần triều.

Với tài năng chính trị và quân sự xuất sắc, ông xử lý mọi quan hệ, vụ án, tạo được uy thế lừng lẫy, năm 1234 được phong làm Thống quốc, làm tể tướng, trở thành trụ cột của nhà Trần, đứng đầu các mọi người để chiến thắng. Trong cuộc chiến với quân xâm lược Mông Cổ năm 1258.

Lịch sử của Levenhu (1230-1322)

Lê Văn Hugh sinh ngày 7 âm lịch tại làng Phù Li, huyện Đông Sơn (nay là thị trấn Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoa, tỉnh Thanh Hóa). Anh là một thanh niên đẹp trai với một tính cách thông minh. Năm 1248, ông thi đậu kỳ thi Đình. Lê Văn huý đỗ Trạng nguyên năm 18 tuổi.

Sau khi thi đỗ, ông được bổ nhiệm đến chức Tư pháp (chịu trách nhiệm hình sự), rồi Hàn lâm viện, Quốc sử quán Việt Nam. Năm 1272, ông hoàn thành việc biên soạn “Da Yue Shi Ji”, bộ quốc sử đầu tiên của nước ta, ghi lại những sự kiện trọng đại trong giai đoạn lịch sử gần 15 thế kỷ từ thời Đại Triệu (136 TCN đến thời Lí Triệu). hoàng năm 1225), 30 quyển, đoạt giải trần thanh tông.

Giờ đây, ‘những ghi chép về lịch sử đại việt’ của ông không còn nữa, ‘đại sử ký truyền kỳ’ của phan phu tiếp nối chuỗi sự kiện ‘đại việt sử ký’ của Lê Văn huu về cuộc sống trên trái đất. Thái Tông (đầu đời trần – 1218) đến chiến thắng quân Minh (1427), gồm 10 quyển, cũng bị thất lạc; chỉ có bộ “Da Yue Shi Ji” của Ngô Sĩ Liên, 15 quyển, hoàn thành vào năm Kỷ Tồn. Heo (1479)).

[Chủ tịch Hồ Chí Minh-tên người mãi mãi đi cùng non sông, đất nước]

Wu Shilian đã viết trong lời tựa của “Da Yue Shi Ji”: “Li Wenyou là một nhà sử học xuất sắc trên thế giới, Pan Futian là một cố nhân của triều đại thần thánh của chúng tôi, và tất cả họ đều tuân theo triều đình biên soạn của quốc gia. lịch sử… Chúng tôi Không nghĩ rằng học lực của tôi rất kém, tôi lấy hai bộ sách của hiền triết, sau khi sửa lại, tôi thêm một cuốn “ngoại sử”, trong đó có một số cuốn gọi là sử ký toàn thư của “Đa Yue “.”

Từ đó có thể kết luận rằng Li Wenyou là nhà sử học đầu tiên ở nước tôi và là người đầu tiên đặt nền móng cho bộ “Lịch sử Dạ Nguyệt” hiện đang được lưu hành.

Nhà của nhà khoa học (1782-1840)

Bác Pan Hui sinh năm thứ hai, là nhà thơ và nhà khoa học thế kỷ thứ 10, tự xưng là Lin Qing Mai Peng, sinh ra ở làng Shuixi, huyện Guoai, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). ).

Con trai của Phàn Xuân vốn nổi tiếng hay chữ từ nhỏ, ông đã thi đỗ tú tài năm 1821. Minh mang biết tiếng, gọi anh ra kinh đô làm biên tập ở viện hàn lâm.

Năm 1824, ông được cử sang nhà Thanh (Trung Quốc) làm phó sứ. Năm 1828, ông trở thành phủ Thừa Thiên Huế ở Xiezhen, Quảng Nam. Năm 1830, ông làm phó sứ nhà Thanh, nhưng bị hồi hương vì lạm dụng quyền lực. Năm 1832, bị buộc phải đến Jiangluba (Indonesia).

Bác Pan Hui có một sự nghiệp khó khăn và chán nản, bác bỏ làng đi dạy học và viết sách. Bác mất năm 1840 ở tuổi 58.

Bộ sách “Zhu Zhi Zhang Li” có 49 tập và mất 10 năm để biên soạn, đây là kiệt tác của ông và được coi là bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt Nam. Những cuốn sách như “hoàng việt du ký”, “hoa thiềm thừ” và “hoa hải quan ngâm”.

Nhà của học giả Liang Wencan (1854-1927)

Long Văn Cẩn, niên hiệu Trung Quốc, học giả hiện đại, quê Hà Nội. Thanh lịch, thông minh và hiện đại, ông đỗ cử nhân năm 20 tuổi, mở trường dạy học kinh tế nghĩa thục và phát động phong trào chấn hưng yêu nước.

Những kẻ khủng bố, đày anh ta sang Campuchia trong 7 năm. Cuối năm 1921, ông về Hà Nội tiếp tục hoạt động chính trị – xã hội, dạy học và viết văn. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm giá trị về đạo đức, lịch sử và ngôn ngữ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969)

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 (năm Giáp Tý) (thuở nhỏ gọi là Nguyên sinh cung, thời đi học gọi là Trạng nguyên. hoạt động cách mạng, ông tên là Nguyễn Yêu nước) quê ở tỉnh Nghệ An Làng Jinlian, xã Nam Liên (Cashlian Commune), huyện Nandan. Ông mất tại Hà Nội ngày 2 tháng 9 năm 1969, hưởng thọ 79 tuổi.

Ông sinh ra trong một gia đình có cha là nhà Nho yêu nước, là nông dân, mẹ là nông dân, chị và em tôi đều tham gia chống Pháp và bị tù đày. Năm 1911, Người ra nước ngoài, hoạt động nhiều, tham gia các phong trào cách mạng của nhân dân các nước, đồng thời tiếp tục đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc.

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi tên là Đảng Cộng sản Đông Dương, sau là Đảng Lao động Việt Nam, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam).

Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Quảng trường Ba Đình; Tổng tuyển cử tự do được tổ chức khắp nước bầu cử Quốc hội, và bản hiến pháp dân chủ Việt Nam đầu tiên. Quốc hội khóa I (năm 1946) bầu ông là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

tại Đại hội lần thứ hai của Đảng (1951), đồng chí được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi to lớn trong công cuộc chống Chiến tranh thực dân Pháp, với Điện Biên Phủ Đại thắng kết thúc (1954).

Đại hội III của Đảng Cộng sản Việt Nam (1960) nhất trí bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân Việt Nam. Quốc hội khóa II và III bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến vĩ đại chống đế quốc Mỹ xâm lược, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, nhà hoạt động xuất sắc của cách mạng Việt Nam, phong trào cộng sản quốc tế và sự nghiệp giải phóng dân tộc. sự chuyển động.

Năm 1987, UNESCO đã phong tặng Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam – Nhà văn hóa kiệt xuất”. Tạp chí Time đã vinh danh Hồ Chí Minh là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là nhà văn, nhà thơ, nhà báo với nhiều tác phẩm bằng tiếng Việt, tiếng Trung, tiếng Nga, tiếng Pháp và tiếng Anh. Các tác phẩm tiêu biểu của ông có “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn độc lập”, “Nhật ký trong tù” …

Tổng Bí thư Lý Hồng Phong (1902-1942)

Cố Tổng Bí thư Lê Hồng Phong sinh năm hai, là một trong chín hội viên nòng cốt của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.

vào tháng 3 năm 1935, ông được bầu làm tổng bí thư tại Đại hội lần thứ i của Đảng ở Macau (Trung Quốc). Bốn tháng sau, ông dẫn đầu một phái đoàn của Đảng đến Đại hội Đảng Cộng sản Quốc tế lần thứ 7 ở Mátxcơva (Liên Xô cũ). .

Tại đây, đại hội đã công nhận đảng là một chi nhánh chính thức của Comintern và bầu Li Hongfeng làm ủy viên ban chấp hành.

Tổng Bí thư Xia Huita (1902-1941)

Hà Huy sinh năm 1 tuổi tại xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Tốt nghiệp Quốc học Huế năm 1923, ông dạy học tại Thành phố Vinh, sau đó vào Sài Gòn tham gia Hội Phục Việt (sau đổi thành Sin Việt).

Cuối năm 1928, ông cùng Phàn Địch sang Quảng Châu bàn việc hợp nhất Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, chuyển thành Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1929, Người đi học Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản Liên Xô.

Tháng 3 năm 1935, ông trực tiếp chủ trì đại hội đảng lần thứ nhất tổ chức tại Ma Cao, Trung Quốc từ ngày 27 đến 31 tháng 3 năm 1935. Tháng 7 năm 1936, ông được bổ nhiệm làm tổng bí thư. Sau đó, He Hui trở lại Trung Quốc để hướng dẫn phong trào cách mạng. Ngày 1 tháng 5 năm 1938, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, kết án tù, đày về quê.

Ngày 30 tháng 3 năm 1940, một lần nữa bị bắt và bị kết án tử hình với tội danh liên quan đến cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (28 tháng 8 năm 1941). Sau 68 năm kể từ ngày ông mất vì hóc môn (Jiading), ngôi mộ được tìm thấy và thi hài của đồng chí He Hui được di dời và an táng tại quê nhà.

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914-1967)

Nguyễn Chí Thanh sinh năm sau, tên thật là Nguyễn Vạn, tại làng Nha Phu, huyện Hoàng Tiên, phủ Thuận Thiên (nay là tỉnh Huế). Năm 1937, đồng chí gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và làm Bí thư Khu ủy, Bí thư Tỉnh ủy (Chengtian), Bí thư Khu ủy (bốn huyện).

Năm 1945, ông được cử đi dự đại hội toàn quốc của phong trào mới, tuyên dương quang vinh và được bầu vào ban chấp hành trung ương đảng, được chỉ định làm bí thư trung ương đảng, làm chủ nhiệm tổng cục chính trị.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), đồng chí được cử làm Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ủy ban Quốc phòng. Được thăng cấp tướng năm 1959. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông làm Bí thư Trung ương Cục miền Nam, chính ủy Quân giải phóng nhân dân miền Nam. Ông mất tại Hà Nội ngày 7 tháng 6 năm 1967. /.