Bảo tồn di sản văn hóa dân tộc là vấn đề cấp thiết

Di sản văn hóa dân tộc là gì

Video Di sản văn hóa dân tộc là gì
Tuy nhiên, những biến động về thời gian, hoàn cảnh sống, tác động của quá trình hội nhập … đã làm mai một những nét văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc thiểu số, cần được bảo tồn một cách cấp thiết.

* Mất văn hóa dân tộc

Đối với người Miêu ở vùng núi phía Bắc, âm nhạc đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong tình yêu và hôn nhân. Trước đây, ở phiên chợ, các chàng trai cô gái người Mông thường thổi kèn lá để tìm bạn tình. Khi yêu, họ dùng sáo và đàn môi để bày tỏ tình cảm với người yêu. Đi lễ hội Gầu tào, họ sử dụng đàn tính làm phương tiện thể hiện tình cảm của mình … nhưng hiện nay, khi các hình thức giao tiếp hiện đại ra đời, người ta không còn sử dụng tiếng khèn, tiếng sáo nữa. Xưa họ gánh cát bụi, dùng radio thay cho nhạc cụ dân tộc, nhưng bây giờ, họ dùng điện thoại di động … cứ thế thổi kèn, thổi sáo hay hát tỏ tình đều bị từ chối. Lạc vào cuộc đời.

Không chỉ ở cộng đồng người Miêu, mà nghệ thuật ca hát, dân ca, múa dân gian hay sử dụng nhạc cụ dân gian … cũng đã mai một ở các dân tộc Thái, Môn, Thái, Cao Lan … nhiều năm. Cuộc sống hàng ngày.

Không chỉ âm nhạc đã biến mất, mà ngay cả âm thanh, yếu tố cơ bản của văn hóa dân tộc, cũng bị mai một hoặc đang trên đà diệt vong được coi là tiêu chí quan trọng để xác định thành phần của một quốc gia. Theo ông Trần Bạn Sơn, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học dân gian Việt Nam, nhiều dân tộc không còn nói tiếng mẹ đẻ. Ví dụ, dân tộc của cha ông ta có hơn 2.000 và thuộc hai dân tộc địa phương: Tudi (ở Lào Cai) và cha y (ở Hà Giang). Hiện cha Lào Cai không nhớ được tiếng mẹ đẻ, thay vào đó dùng tiếng phổ thông (miền Nam Trung Quốc), cha Hà Giang chủ yếu nói tiếng Giáy, tiếng tay … Ở một số nơi khác ở Tây Bắc có phong trào kháng chiến, Laha, chàng trai xinh đẹp. … … chủ yếu bằng tiếng Thái trong các giao dịch …

Bà Lữ Thị Loan bên dàn chiêng mừng năm mới. (Ảnh: Minh Thu/Vietnam+)

Không chỉ ngôn ngữ, mà các yếu tố văn hóa khác như trang phục, kiến ​​trúc, phong tục, lễ hội, v.v. của các dân tộc này đều bị mai một nghiêm trọng. Lên Tây Bắc bây giờ, chỉ có những nhà dân tộc học, hoặc những người hiểu biết sâu rộng về văn hóa dân tộc mới phân biệt được nhà sàn của bộ đội kháng chiến, người Laha, người Thái … Tôi đang tham gia một số lễ hội và xem đạo. lễ của nhân dân kháng chiến và dân tộc Laha Khi, người đẹp … được nhiều người cho rằng đó là một sự kiện văn hóa của người Thái. Ví dụ khác, người o du có số lượng cư trú lớn nhất ở huyện tương đương (nghệ an). Hiện nay, nhà cửa, trang phục, đám cưới, đám tang … của người Odu đều là sự pha trộn, vay mượn của các dân tộc Thái và Kemu trên địa bàn. Họ cũng sử dụng tiếng Khmer và tiếng Thái làm công cụ giao tiếp hàng ngày.

Những ví dụ trên chỉ là những ví dụ rất nhỏ về sự mất bản sắc văn hóa của một số dân tộc thiểu số hiện nay. Thực tế cho thấy, nhiều dân tộc hiện chỉ còn hàng chục người cao tuổi biết tiếng dân tộc mình, nên những lễ hội truyền thống, những phong tục đẹp đôi khi chỉ còn lại trong trí nhớ của các già làng, bản trưởng mà thôi.

Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc thừa nhận rằng trong quá trình đô thị hóa và sự bùng nổ thông tin do công nghệ hiện đại mang lại, sự giao lưu văn hóa diễn ra rất nhanh và mạnh, làm cho văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số phải đối mặt với những thách thức to lớn, vì mối quan hệ giữa bảo vệ và bảo vệ Sự phát triển không được quan tâm đúng mức. Hàng nghìn làng, bản, làng truyền thống có giá trị văn hóa dân tộc tiêu biểu có nguy cơ mai một, biến dạng cần được hướng dẫn, hỗ trợ để bảo vệ và tiếp tục phát triển trong cuộc sống đương đại.

* Cần cấp bách bảo vệ văn hóa dân tộc

Tiến sĩ Trần Bạn Sơn, một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn hóa dân gian Việt Nam cho rằng việc bảo vệ văn hóa các dân tộc thiểu số đang ở giai đoạn rất cấp bách, nhưng cần phải làm một cách bài bản và lâu dài. từ trung ương đến địa phương.

Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách bảo vệ văn hóa dân tộc từ trung ương đến địa phương như bảo vệ làng nghề truyền thống, bảo vệ các làn điệu dân ca, dân vũ, sưu tầm và khôi phục, phát triển nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống. Đã mất, làm sống lại một số lễ hội truyền thống …

Nhiều dự án bảo vệ văn hóa các dân tộc cũng đã được triển khai, như Dự án bảo vệ và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020, mỗi dân tộc có một làng văn hóa được bảo tồn, dự án bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số lớn nhất .. Văn hóa dân tộc Bộ (Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cũng đã tổ chức hàng chục lớp truyền dạy văn hóa phi vật thể đàn lo, tấm, ngai, cha y cho đồng bào dân tộc thiểu số … để giúp đồng bào nâng cao khả năng bảo vệ văn hóa. Xây dựng đất nước của riêng bạn.

Mới đây, đầu năm 2019, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 209 / qd-bvhttdl phê duyệt Đề án “Bảo vệ và phát huy trang phục truyền thống dân tộc”. Giai đoạn ”. Năm 2020, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Đề án“ Từ năm 2021 đến năm 2030, thường xuyên tổ chức các hoạt động lễ hội, giao lưu, liên hoan văn hóa, thể thao vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo vùng và quốc gia ”.

Từ đầu năm 2021 đến nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng liên tục ban hành các quyết định về việc bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, như: phương án xây dựng đề án “bảo vệ, tôn tạo và phát huy giá trị “2021-2030 Dân ca các dân tộc thiểu số, mối quan hệ giữa múa dân tộc, âm nhạc dân tộc và phát triển du lịch”; tổ chức lớp tập huấn bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết cho dân tộc Cơ tu (huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam); lớp tập huấn về phương thức và cách thức bảo tồn các chợ dân tộc tiêu biểu; Mô hình câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân tộc mạ điện được xây dựng tại khu tái định cư thủy điện huyện Dakelong của tỉnh; thành lập câu lạc bộ văn hóa dân gian tỉnh Taiyuan. nghệ thuật của người Sơn Đông …

Giá trị của việc bảo vệ và giữ gìn di sản văn hóa dân tộc từng bước được ghi nhận ở nhiều nơi, nhiều lễ hội văn hóa đặc trưng đã được nhà nước phục dựng, ghi nhận và công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Nhiều cuốn sách về bảo vệ văn hóa dân tộc đã cũng được các nhà nghiên cứu xuất bản và lưu giữ, góp phần quan trọng vào việc bảo tồn, gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa của nhân dân.

dr tran huu son tin rằng sự tham gia của cộng đồng địa phương là yếu tố quyết định trong việc bảo tồn văn hóa, vì người dân là chủ nhân của di sản. Tuy nhiên, để bảo tồn văn hóa truyền thống của một quốc gia thì bản thân dân tộc đó phải có lòng dũng cảm. Điều đó nói lên rằng, quốc gia này cần nâng cao khả năng tự bảo vệ và bảo tồn văn hóa của mình. Cán bộ làm công tác bảo tồn văn hóa phải vừa định hướng, vừa truyền cảm hứng, đồng thời ủng hộ sự hiểu biết và tham gia tích cực. Nhà nước phải hỗ trợ về chính sách, đầu tư kinh phí và để người dân thực hiện, vì bảo vệ và phát triển cần rất nhiều đầu tư, dù là đầu tư nghiên cứu hay đầu tư thực hiện, cũng như đầu tư xây dựng môi trường. Bảo vệ di sản văn hóa.

Theo quan điểm của ông Tôn, có nhiều cách bảo tồn, nhưng có một cách bảo tồn sống trong văn hóa, tức là cả cộng đồng sống trong môi trường văn hóa để bảo tồn tốt nhất. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, việc bảo quản như vậy là rất khó. Nhưng chúng ta có thể xây dựng và bảo vệ một làng, cả một làng. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu việc lưu giữ đời sống, bảo tồn theo cách bảo tàng như chụp ảnh, quay phim tư liệu về tất cả các nghi lễ, nghi lễ, đời sống sinh hoạt của người dân. Hãy lưu lại để những thế hệ mai sau muốn học có thể xem lại … Đó là một phương pháp bảo tồn tốt được nhiều nước trên thế giới sử dụng.

Trong khi bảo vệ các chính sách, chính quyền địa phương cũng cần xây dựng các chương trình phát triển và nâng cao chuyên môn của cán bộ văn hóa và xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số; xây dựng và thực hiện các chính sách đào tạo nhân tài, ưu tiên những người trong cộng đồng có tác động tích cực về cộng đồng Người có uy tín, nghệ nhân, trưởng bản, … nâng cao hơn nữa việc bảo vệ, bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng. nhóm chủng tộc. /.