Quẻ 4: Sơn Thủy Mông – 64 Quẻ Dịch

Bạn đang quan tâm đến: Quẻ 4: Sơn Thủy Mông – 64 Quẻ Dịch tại Soloha.vn

Sơn thủy mông

: | ::: | Sơn thủy mông

Sáu Hậu Thiên Bát quái, còn được gọi là Sáu Bát quái Mông (Meng meng2), là quẻ thứ tư trong Kinh dịch.

* Nội quái là ☵ (: |: kan kan3) dát = (thủy) nước

* Quái vật ngoài hành tinh là (:: | gen4) can = (núi) núi

Giải thích: Xin lỗi. Không được thông tin. Đen tối, mờ ám, mờ đục, mờ mịt, che đậy, che đậy, ngu ngốc, ngây thơ. Bốn ngày rưỡi võng: tượng lưới rải khắp chung quanh.

Mông Cổ :, cầu xin con,

Trẻ em, thứ ba,

mông: hanh, rơi, rơi, rơi, rơi.

Báo cáo sơ bộ, báo cáo ba chất độc lặp lại, báo cáo độc lập. lợi ích.

Dịch: Những đứa trẻ rất vui. Chúng tôi không tìm kiếm trẻ em, mà trẻ em đang tìm kiếm chúng tôi. Nếu bạn hỏi (bói toán) một lần, hãy nói đi, nếu bạn hỏi hai ba lần, bạn sẽ chán, và nếu bạn chán, đừng nói. Nếu hòa hợp với Chính thống thì sẽ có lợi (thành công).

Giảng : Theo nghĩa quẻ, việc cần là ngăn, khảm là nguy. Nội (quỷ trong) thì hiểm, ngoại (quỷ ngoài) thì bị cản trở, không tiến lên được, ý định mơ hồ, nên gọi là mông.

Từ hình ảnh, có một ngọn núi ở đỉnh (can) và nước sâu dưới chân núi (khảm), cũng có nghĩa là bóng tối (mông). Cũng có thể giải thích rằng dưới chân núi có một giọt nước nhỏ, tức là hạng người còn nhỏ (khi giang sơn lớn), hạng người là “Đông mông”, nên gọi là quẻ này. mông (mông có nghĩa là chưa trưởng thành).

Đặc biệt, quẻ này chỉ tập trung vào rãnh thứ 2 và thứ 5. Tuyến thứ hai là cương thi, làm chủ được nội quái, xứng là cường giả, vạch mông cho con (tức là mở màn tối tăm). . Ngũ hành tương ứng với hào là hiền lành, thành đạt là tượng của người học giỏi. Vì vậy, thầy trò hòa nhập thì việc học phải có kết quả tốt, nên quẻ này mới có phúc đức.

Là giáo viên, học sinh mềm yếu, nên giáo viên không nhất thiết phải mời học sinh, mà học sinh phải mời giáo viên. Khi dạy, học sinh hỏi 1 lần rồi nói, hỏi 2, 3 lần thì chán, không nói nữa. Giữ vững con đường đúng đắn (hoặc thúc đẩy công lý) sẽ mang lại lợi ích và thành công.

Tuyên bố:

1. Sáu: Mông Cổ, sử dụng ,, đi

Giới thiệu: Đánh đòn, sử dụng búp bê, bỏ chạy bằng cốc, gian lận trong quá khứ.

Dịch: Moat 1. Phủ định: Mở ra bóng tối (dành cho những người cố chấp) nên dùng hình phạt để giải thoát họ khỏi gông cùm, nhưng đừng đi quá xa, bạn sẽ hối hận.

Dạy: Âm này là âm thấp nhất trong quẻ mông và là tượng bị ghét nhất. Phải dùng hình phạt để giải thoát chúng khỏi gông cùm (mẫu hậu), khi có quả thì đừng. sử dụng quá nhiều hình phạt, Bạn sẽ hối hận vì điều này.

Lời nói: “Dùng hình người”, dịch gần đây là dùng người để xem hình, tức là dùng hình phạt.

2. Chín mươi hai. Bao Mengji. Nafuji.

nuu nhi: Bao cát, cát, xô tử.

Dịch: hao, dương: khoan dung độ lượng, phụ nữ ngoan ngoãn, nhân hậu; (ở dưới gánh vác việc trên) như con trai đảm việc nhà.

Giảng: Hào 2 Dương, chí khí cường hãn nhưng trung dung nên được cho là có sức chịu đựng; chủ về nội quỷ, cai quản tứ âm nên được cho là chịu được tiếng, tức là người mềm mại như đàn bà, tuy thấp nhưng là hào quan trọng nhất trong quẻ, nên được ví như người con trai biết quán xuyến việc nhà. Nói chung, con hào là tốt.

Phan Bội Châu giải thích ba chữ “Tử Kê” theo một cách khác: ông cho hào 5 là hào thượng (ngoại quỷ) tức là bố ở nhà, hào dưới 2 tức là phụ. , con trai. Người cha yếu (vì nó là âm), và con trai mạnh mẽ và thông minh (vì nó là dương).

Cao Hãn chỉ đứng trên phương diện bói toán, không đứng trên phương diện đạo đức, không cho phép dịch có ý nghĩa triết học và xử thế, nên cách hiểu khác nhau: dạy “chung chạ” là gả cho con cái. “Zi Hakka” là con nhà nòi, đó là lòng tốt của người làm bếp không có đồng tử (theo ông: mông, đầu bếp, mông là mắt không có đồng tử). Để hiểu đại khái về một nhà quý tộc như vậy, xin cho một ví dụ.

3. :

Không,

luc tam: Dụng cụ cầm tay nữ cho kim phu.

Không có nguồn cung thực, không có lợi nhuận.

Dịch: Moat 3. Tiêu cực: Không dùng hạng nữ để xem vàng bạc châu báu (theo dõi ngay lập tức) Không nhận ra thân thể của chính mình; không có tác dụng gì tốt.

Giảng: Mô 3 là mềm (trong quẻ đít, là lời nguyền) không chung thủy, bất chính, nên so sánh với người con gái không có đức hạnh, không còn trinh tiết, tham lam. Người ta nói rằng kẻ ác xem lợi nhuận mà quên đi công lý (âm cũng chỉ kẻ phản diện). Phan Bội Châu là cái hào xấu nhất, những kẻ ăn nói ở trong hào không đáng dùng, không dạy dỗ.

4. :,,

Six Four: Fuck, ass, cheat.

Dịch: Moat 4, Yin: bị nguyền rủa trong một vòng lặp vô tận, hối hận cũng đã muộn.

Pháp: Đít Gua chỉ có 2 và 6 hào để cương cứng, có thể là dâm, còn 4 hào còn lại là âm. Hào thứ 4 này cũng tối như hào thứ 3, nhưng xấu hơn hào thứ 3 vì nó cách xa hào Eryang (hào Tam Dương cũng gần với hào Eryang) và được bao quanh bởi hào âm (âm thứ ba và thứ năm). ), rơi vào trạng thái hôn mê, và mọi người sẽ hối hận và xấu hổ.

Biểu tượng của câu chuyện: nó phải được hối tiếc và xấu hổ, bởi vì nó là một trong bốn dòng Yinxian khác xa với “thực” hoặc mương dương. Đường dương là đường liền, ở giữa không bị thiếu, nên gọi là “rắn” (đặc, đầy đủ).

5. :

Sáu Năm: Đồng mông cát.

Dịch: Groove 5, Giọng nói: Trẻ con, dốt nát (nhưng dễ dạy), tốt.

Thuyết giảng: Hào thứ năm này là giọng hay nhất mà chúng ta có thể nói khi rao giảng đường lối của vua, vì nó có âm Hán-Đức (âm) (trong ngoại quái), lại tương ứng với 2 kim cương sau. hào có thể so sánh với một đứa trẻ dễ dạy và nghe lời (Moat 2).

Pan Bozhou cho rằng hào này là vua hết lòng tin cậy thánh hiền (vì ở vị trí cao nhất trong quẻ) (hào 2).

6. Chín: Mông Cổ, Yu Kou.

<3

Dịch: Hào đầu, dương: Phép trừ tối quá nghiêm khắc, người mình dạy dỗ sẽ oán hận, có thể trở thành kẻ thù, nên ngăn địch bên ngoài chẳng có ích lợi gì (tức là dụ những thứ dục vọng của người đó) đều có lợi.

Dạy: Hào này đứng đầu quẻ mông, biểu thị cực đoan vô minh, là dương, ở trên, nhưng không chung thủy, nên tuy có khả năng phát tán hắc ám, nhưng quá nghiêm khắc. , khiến người ngu si Căm thù, nổi loạn, không nghe lời thì có thể trở thành kẻ thù, làm hại người khác. Nghĩa là: thù, có hại), tốt hơn hết hãy tìm cách ngăn cản đối tượng tình dục dụ dỗ mình; tức là “cả thầy và trò đều có đạo đức (cả trên và dưới, truyện ngắn).

Quẻ này dùng để dạy dỗ, phải nghiêm khắc (hào 1), nhưng không quá nghiêm khắc mà đề phòng con cái mắc lỗi (hào 6).